Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật [Danh tướng và vương tử nhà Trần]

Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật

Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật (1255 – 1330) là một danh tướng lập nhiều đại công thời nhà Trần, nổi tiếng với trận Hàm Tử chống quân Nguyên Mông xâm lược.

Chân dung vị hoàng tử nhỏ tuổi

Đoàn thuyền dài dặc, chậm chạp ngược nước Hoàng Giang [1] trở về kinh đô Thăng Long. Đủ các kiểu thuyền lớn nhỏ chen chúc bên nhau. Chiếc nào cũng sặc sỡ, long lanh những lụa là gấm vóc căng vuông, quây tròn làm nên cảnh màn che trướng rủ ngay trên sông nước. Vừa tháng trước, đoàn thuyền của hoàng gia cồng kềnh mà gấp gáp rời kinh thành đi lánh giặc, bây giờ tất cả đã tươi vui, hồ hởi trở lại hoàng cung: đại quân của Trần triều vừa cả phá binh đoàn hung bạo của tướng giặc Cốt Đãi Ngột Lang [2], thu được kinh đô!

Gió xuân ấm và ẩm nhè nhẹ lay cánh quân trong tay Linh từ quốc mẫu [3] – người vừa góp phần không nhỏ vào chiến thắng của triều đình Đại Việt. Chưa đầy một tháng trường dốc sức lo liệu việc đưa gọn cả hoàng gia vừa kịp rời bỏ kinh thành trước lúc giặc Thát [4] ập đến tàn phá, rồi lại đứng đầu việc thu thập, quyên góp binh khí, quân nhu gửi ra trận tiền cho tướng sĩ – mái tóc của Linh từ quốc mẫu đã thêm nhiều sợi bạc. Và bây giờ thì bà lão quắc thước đang vén cánh màn gấm, ngó đầu ra ngoài khoang thuyền. Linh từ quốc mẫu vừa toan cất tiếng gọi thì đã dừng lại ngay lại: quay lưng về phía bà, một bóng người nhỏ xíu đang lặng lẽ đứng thẳng ở mũi thuyền, mê mải nhìn mãi ra phía trước, chẳng hề động đậy.

Linh từ quốc mẫu chớp mắt, lắc đầu. Từ ngày để con người nhỏ bé kia theo sát bên mình trong suốt thời gian cùng hoàng gia lánh giặc, quốc mẫu ngày càng nhận ra những nét đặc biệt ở vị hoàng tử thứ sáu của vua Thái Tông. Mới 5 tuổi mà khác hẳn mọi đứa trẻ, hoàng tử lúc nào cũng lặng lẽ như luôn luôn đẵm mình vào những việc xa vời.

Quốc mẫu bước nhẹ ra mũi thuyền, đặt tay lên vai đứa cháu nhỏ:

– Nhật Duật!

Chú bé đứng nhìn đăm đăm một vùng sóng nước trước thuyền, nghe tiếng gọi đột ngột chẳng hề thảng thốt giật mình [5]. Thong thả xoay người trở lại, gương mặt hướng về phía người về gọi mình, nhìn kỹ một lúc rồi mới mở miệng gọi:

– Bà ơi, cháu…

– Hoàng tử Chiêu Văn [6]! Cháu phải gọi ta là “quốc mẫu”.

Linh từ quốc mẫu nhẹ nhàng mà nghiêm nghị uốn nắn cách cưng hô của đứa cháu nhỏ. Chú bé lặng lẽ ngước mắt nhìn lên rồi thong thả:

– Tâu quốc mẫu, người ở đây ai cũng gọi bà là “bà”…

– Đấy là tiếng nói của dân thường. Còn hoàng tộc thì đã có lệ phải dùng chữ của người Hán để phân biệt!

Trí tuệ của vị hoàng tử 5 tuồi bắt lấy ý đó và nói rộng ngay:

– Tâu quốc mẫu, ở vùng này có nhiều người nói tiếng gì mà nhiều khi không giống hẳn người thường?

Linh từ quốc mẫu mở to mắt nhìn đứa cháu. Lại một việc kỳ lạ nữa! Quốc mẫu giảng giải:

– Đấy là người Chiêm Thành mà các đời vua trước đi trận bắt được, cho về sống ở đây…

Khuôn mặt non nớt của Trần Nhật Duật thoáng một nét đăm chiêu:

– Người Hán này, người Chiêm Thành này… Thế ở quanh ta đây còn có bao nhiêu giống người tất cả?

– Nhiều… – Vị quốc mẫu bắt đầu lúng tùng – Rồi… lớn lên cháu sẽ biết!

Chiêu Văn hoàng tử Trần Nhật Duật lại xoay người nhìn ra trước mũi thuyền. Trong khi đó, Linh từ quốc mẫu cũng nghiêng người ngắm đứa cháu: “Thằng bé đã sớm lộ thiên tư, ham thích hiểu biết về các tiếng nói và các giống người!” – Bất giác đầu óc của vị quốc mẫu hình dung ngay ra cái thế của người Việt đang sống xen giữa bao giống người khác mà bà, cũng như cả triều đình, đều chưa am tường. Trong khi chính đây lại là chuyện hệ trọng. Nội một việc trại chủ vùng Quy Hóa [7] vừa tự đem binh Mường của mình ra chặn đánh giặc Thát trên đường chúng rút chạy từ Thăng Long về nước, cũng đủ thấy rằng, liên kết chặt chẽ được với những người mà triều đình vẫn quen gọi là Phiên, Man, thì lợi ích sẽ không nhỏ. Phên giậu của triều đình chính là họ, nếu rồi đây quân giặc lại gây hấn nữa.

“Phải có riêng người để cậy trông việc giao dịch kết liên với các Phiên, Man và các lân bang” – Linh từ quốc mẫu vừa nhủ thầm, vừa long lanh cặp mắt nhìn mãi vào khuôn mặt khôi ngô của đứa cháu nhỏ, trong khi vị hoàng tử thứ sáu của vua Thái Tông vẫn thản nhiên, khẽ nhíu cặp lông mày xanh biếc, nhìn mãi về phía trước…

Phần I – Trần Nhật Duật – vị vương tử tài hoa

Nhà Tống diệt vong, Chiêu Văn Vương chiêu hiền đãi sĩ

Hơn 20 năm đã qua, kể từ ngày đạo quân của tướng Cốt Đãi Ngột Lang tàn phá rồi tháo lui khỏi kinh đô. Giặc Thát đã một lần nhục nhã tả tơi rút chạy, nhưng giấc mộng cuồng điên thôn tính nước Đại Việt của chúng vẫn chẳng bao giờ nguôi. Vó ngựa quân Thát đã băng qua sa mạc Trung Á, tràn tới tận trung tâm Châu Âu, vượt qua Vạn Lý Trường Thành, giày xéo khắp đất nước Trung Hoa mênh mông, không lẽ nào dừng lại trước một nước Đại Việt! Binh mã đã sẵn sàng, nếu Đại Việt “không chịu ngồi yên, cố ý kháng mệnh, thì… cứ sửa sang thành lũy, sắm sửa giáo binh, chờ đấy mà xem!” [8].

Từ một chú bé phải theo hoàng gia đi chạy giặc, Trần Nhật Duật đã trở thành một chàng thanh niên tuấn tú vào giữa những ngày đó. Non sông đang chuyển mình dữ dội trước cơn giông bão từ phía giặc Thát lững lững kéo tới, đe dọa quét sạch từng ngọn cỏ gốc cây. Thấy rõ cha anh mình cùng nhân dân Đại Việt đổ mồ hôi và xương máu đương đầu với quân giặc, tuổi trẻ của Trần Nhật Duật là những năm tháng miệt mài rèn luyện để nên người hữu dụng, xứng đáng với dân tộc và dòng họ.

Đọc binh thư, tập nghệ võ, luyện văn chương như mọi người và hơn nhiều người. Trần Nhật Duật còn trẻ mà đã nổi tiếng hiểu nhiều biết rộng. Nhưng uy tín của vị hoàng tử ít tuổi còn cao hơn nữa ở trong triều ngoài nước, chính là nhờ tài ba được luyện rèn trên cái năng khiếu đã sớm lộ rõ từ ngày còn nhỏ. Để tâm nghiên cứu, tìm hiểu về các nước láng giềng, chàng thanh niên Nhật Duật đặc biệt chú ý đến nước Trung Hoa dưới vương triều Tống ở phương Bắc, và nước Chiêm Thành ở phía Nam. Học tiếng Tống và tiếng Chiêm, sử dụng thành thạo các ngôn ngữ ấy, Nhật Duật còn am hiểu nhiều mặt của các nước đó, kể cả những phong tục tập quán chi li nhất. Đối với các dân tộc ở trong nước, Nhật Duật càng chuyên tâm học hỏi, tìm tòi. Hiểu về họ, Nhật Duật không chỉ hiểu tiếng, mà còn hiểu cảnh, hiểu người.

Ngoài 20 tuổi, Trần Nhật Duật đã được phong tước vương, và là người của triều đình nhà Trần đặc trách những công việc về các dân tộc có liên quan. Vua Trần Nhân Tông vừa kinh ngạc vừa thán phục khả năng của Trần Nhật Duật, thường thân mật nói đùa: “Chiêu Văn Vương dường như không phải là người Việt mà chính là hậu thân của các giống Phiên, Man!”. Trong khi đó, tiếp xúc với sứ thần của triều đình nhà Nguyên, có lần Trần Nhật Duật đã vui vẻ tự nhiên, cùng uống rượu và chuyện trò suốt cả một ngày, khiến cho sứ Nguyên nhất định cho rằng Nhật Duật là người Hán ở Chân Định [9] sang làm quan ở bên Đại Việt. [10]

Giữa thư phòng ngồn ngộn sách vở, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật cúi đầu đọc rốn mấy trang của bộ Thái Bình hoàn vũ ký [11] trước khi ra sảnh đường tiếp khách.

Việc đọc sách bao giờ cũng khiến Trần Nhật Duật mê say. Những dòng chữ cổ kim, đọc lúc thư nhàn hay vội vã, luôn luôn cuốn hút trọn vẹn tâm trí Nhật Duật. Phần Lĩnh Nam đạo của bộ sách Thái Bình đồ sộ này có nhiều miền giáp ranh giữa hai nước Trung Hoa và Đại Việt – Chính là những trang ưa nghiền ngẫm hàng ngày của vị thân vương trẻ tuổi đặc trách công việc miền biên viễn. Nhật Duật với tay lên giá sách, chọn thêm mấy cuốn trong bộ Lĩnh ngoại đại đáp [12], cặm cụi tra cứu, so sánh đoạn văn vừa chợt thấy có điều ngờ ngợ. Cuối cùng, ông đặt cả những tập sách lên án thư, ngước mắt đăm đăm nhìn vào thanh bảo kiếm treo nghiêng trên vách, lặng lẽ suy tư…

“… Nước Tống quả là có lắm người tài. Kiến thức của họ thật là rộng. Sách vở của họ như núi. Lĩnh Nam [13] là miền đất xa ngoài biên cương mà họ cũng dày công viết nhiều đến như vậy! Một nước văn hiến đến thế, mà sao không cự nổi giặc Thát?” – Trần Nhật Duật miên man, bàn tay vô tình mân mê chiếc ấn mang hai chữ triện “Chiêu Văn” vuông vức đặt trên án thư – “- “Hoàng đế nhà Tống rút chạy quân Thát từ Bắc xuống Nam cuối cùng đã phải trẫm mình ngay ở Nhai Sơn thuộc Lĩnh Nam [14]. Đất Lĩnh Nam mà Tống triều đã bỏ công nghiên cứu viết sách, cuối cùng không giúp được vua Tống thắng giặc. Sao vậy? – Bàn tay của Nhật Duật tiếp tục gại ngón trên gờ sắc của chiếc ấn – “Tống triều chăm viết sách mà không chăm việc cố kết lòng người nơi biên viễn. Sách vở của họ cũng đầy rẫy những chuyện miệt thị các dân ngoại tộc, ngay trên từng dòng viết về miền Lĩnh Nam… Phải chăng đây chính là cái gương nhỡn tiền mà người lo việc biên viễn phải kiêng dè?”.

Mấy tiếng chuông báo hiệu từ sảnh đường vọng vào thư phòng, Trần Nhật Duật dứt khỏi dòng suy tưởng, sửa sang khăn áo, tạm rời bỏ chồng sách.

Ít lâu sau, quân quan nhà Tống thất trận trước giặc Thát, ùn ùn rời quê hương sang nương náu ở Đại Việt. Nhiều người trong bọn họ là những kẻ có chí khí và tài năng. Rất có thể đây sẽ là một cái vốn quý trong cuộc chiến tranh với quân Thát sau này – Trần Nhật Duật lặng lẽ tính toán rồi đứng ra xin vua Trần cho phép thu nạp họ. Dưới trướng Chiêu Văn Vương, từ năm trước đã nhận vào đạo sĩ Hứa Tông Đạo là người có tài văn chương, giỏi phép thuật. Bây giờ đến lượt một võ tướng, họ Triệu tên Trung, biết tiếng Chiêu Văn Vương chiêu hiền đãi sĩ, đã vừa gửi thiếp xin được yết kiến.

Trần Nhật Duật dùng thẳng tiếng Tống trò chuyện cùng Triệu Trung. Viên tướng của nhà Tống rõ ràng đang hoang mang về cảnh ngộ mất chúa cũ mà chưa tìm được chủ mới, bộc bạch với Nhật Duật:

– Tôi là kẻ mất nước nên phải lưu lạc sang đây. Chẳng hay thân phận bèo bọt này rồi sẽ ra sao ở dưới trướng của Ngài?

– Giặc Thát đã chiếm mất nước ông, bức hại hoàng đế của ông. Chúng đang muốn diễn lại cảnh ấy trên nước Đại Việt. Cho nên kẻ thù của chúng tôi cũng là kẻ thù của ông – Trần Nhật Duật điềm đạm trả lời Triệu Trung – Ông vì mối thù chung đó mà cùng chúng tôi cự giặc, nếu Tống sử không ghi công của ông thì Việt sử sẽ làm việc thay thế.

Thấy Triệu Trung rạng rỡ sắc mặt vì những lời khích lệ chân tình, Trần Nhật Duật thong thả nói tiếp:

– Tôi mới được nghe mấy câu thơ của người nước ông, bây giờ xin đọc lại:

“Nhân sinh tự cổ thùy vô tử
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”.

(Đời người từ xưa, ai chẳng chết
Lưu lại lòng son với sử xanh).

Câu thơ chưa đọc dứt, viên tướng của Tống triều đã nước mắt lưng tròng, sụp ngay xuống lạy:

– Triệu Trung này những tưởng chỉ riêng mấy người Tống chúng tôi mới biết Văn Thiên Tường [15], nào ngờ chuyện vừa mới xảy ra mà Ngài cũng đã tường tận những lời nghĩa khí của bậc nhân giả chúng tôi. Quả là danh bất hư truyền! Xin cho được cùng lũ bộ hạ cắp giáo theo hầu Ngài suốt đời dưới trướng!

Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật quy phục chúa đạo Đà Giang Trịnh Giác Mật

Đoàn quân dài dặc, sáng lóe giáo gươm, rực rỡ tinh kỳ, rời nhanh kinh thành nhằm thẳng hướng Tây Bắc tiến phát. Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật cưỡi ngựa đi trên đầu đoàn quân, dưới hiệu cờ “Trấn thủ Đà Giang”. Đây là chức mới được phong của Nhật Duật. Vị thân vương 27 tuổi đó, lần đầu mặc nhung phục, cầm đầu một đạo quân lớn, đi chinh chiến phương xa.

Mấy hôm trước, vua quan nhà Trần đã vào cuộc họp bàn, lo lắng nhận được tin chúa đạo Đà Giang [16] Trịnh Giác Mật vừa tụ họp phe đảng nổi lên cự lại triều đình. Tin dữ trong nước đến cùng một lúc với điều cấp báo từ ngoài biên ải: vừa diệt xong nhà Tống, Xu mật viện [17] nhà Nguyên đã xin với hoàng đế Hốt Tất Liệt cho ra quân đánh ngay Đại Việt, và vua Thát đã hạ lệnh đóng chiến thuyền, tính thêm cả đường vượt biển để vào Đại Việt! Tình thế thật gấp gáp đã khiến triều đình nhà Trần phải quyết định dọn yên ngay mối họa trong nước. Để tránh cái thế nổi loạn ở phía sau trong khi đang dồn sức ra chống giặc ngoài ở phía trước. Vậy thì không còn ai hơn được Nhật Duật trong việc đảm nhiệm trọng trách này. Và thế là chỉ mấy ngày sau, vị tướng trẻ đã làm lễ ra quân, lên đường.

Bây giờ thì làng mạc ruộng đồng đã lùi cả về phía sau. Đoàn quân đã tiến sâu vào miền núi rừng điệp trùng hiểm trở. Trại quân của Trịnh Giác Mật chẳng còn bao xa nữa [18].

Giữa lúc đó, chúa đạo Đà Giang cũng đang ngồi giữa đám đầu mục của mình:

– Đêm qua ta mộng thấy một con chim lông đỏ bay đến đậu ở trước trại quân. Thế là điềm gở! Lại dò được tin kẻ làm tướng của triều đình chính là Triệu Văn Vương Nhật Duật. Đấy là người có tiếng thông thạo tình hình đất đai dân cư của ta…

Đám đầu mục nhớn nhác nhìn nhau. Trịnh Giác Mật húng hắng ho:

– Thượng sách bây giờ là tránh giao chiến. Ta đã nghĩ ra một kế dụ chủ tướng của triều đình tới đây. Nếu hắn là người non nớt, chỉ có hư danh, thì ta giết luôn. Còn nếu đúng là người tài giỏi, thì phải giảng hòa với hắn!

Một lá thư bay ngay đến lều trận của Trần Nhật Duật khi ấy đã cùng đội quân của mình hạ trại ngoài núi: “Giác Mật không dám trái mệnh triều đình, nếu ân chủ một mình một ngựa đến, Giác Mật xin ra hàng ngay” [19].

Các tướng sĩ của Nhật Duật đều ra sức can ngăn chủ tướng. Không nên nghe theo lời thư của chúa đạo Đà Giang. Quỷ kế đang ẩn náu sau đấy. Nhưng Trần Nhật Duật vừa đọc kỹ lại lá thư, vừa âm thầm suy tính: “Giác Mật không dám đàng hoàng cự chiến, vậy là đã nao núng. Cái kế mọn dụ tướng, xưa nay chỉ dọa được kẻ non gan. Ta sẽ nhân kế này mà xoay chuyển cuộc dấy loạn. Đạo Đà Giang xa xôi này không thể dồn quân chinh chiến lâu dài. Không thể hao binh tổn tướng mãi ở đây, trong khi triều đình đang cần từng người lính để sửa soạn cự lại giặc Nguyên ở bên ngoài. Thượng sách vẫn là thu phục được lòng người ở đây, khiến họ thuận theo về với triều đình làm nên cái thế liên kết lâu bền ở trong một nước…”

Nhật Duật quyết định một mình một ngựa đến ngay trại Giác Mật, chỉ mang theo mấy tiểu đồng cắp tráp đi hầu.

Con ngựa trắng của Chiêu Văn Vương đi thủng thỉnh giữa hàng ngàn quân dữ tợn của chúa đạo Đà Giang. Một lớp gươm rồi lại một lớp giáo, Giác Mật có ý dàn quân phô trương, dọa nạt. Nhưng nét mặt của vị thân vương đi trấn thủ đạo Đà Giang vẫn lặng lẽ thản nhiên. Chỉ có mấy chú tiểu đồng, khi vừa đến sát ngôi nhà sàn đồ sộ của Giác Mật, nghe một loạt tiếng quát dữ dội, và thấy đám quân lính sắc phục kỳ dị của chúa đạo Đà Giang chĩa ra một loạt mũi giáo nhọn hoắt, thì tái xanh nét mặt, đỏ bừng đôi tai!

Trần Nhật Duật thong thả bước lên nhà sàn, chậm rãi nói với Trịnh Giác Mật vừa từ phía trong tiến ra:

– Lũ tiểu đồng của ta khi đi đường thì nóng tai trái, vào đến đây thì nóng tai phải…

Dùng ngay ngôn ngữ của dân tộc Đà Giang, vừa chỉ tay vào những đôi tai đỏ ửng của bầy tiểu đồng, vừa điềm nhiên nói năng thật rành rẽ, Trần Nhật Duật thốt nhiên khiến cho chúa đạo Đà Giang và cả đám đầu mục cũng sững sờ kinh ngạc. Những tiếng rì rầm nổi lên giữa các thủ lĩnh của Giác Mật:

– Người này là ai mà biết nói hết những điều giống hệ tục lệ của ta? Nóng tai trái là có người ngoài mong đợi, nóng tai phải là có người thân trông ngóng. Sao nói giỏi vậy?

Trong khi đó, Trần Nhật Duật vẫn như không nghe thấy những tiếng bàn tán xôn xao, đàng hoàng phân ngôi chủ khách, cùng Trịnh Giác Mật ngồi giữa nhà. Mâm rượu đã bày ra sẵn, và chúa đạo Đà Giang vừa nheo mắt thách thức, vừa đưa tay mời: Chỉ có một quả bầu cắt đôi, sóng sánh một thứ rượu ngâm và một đĩa thịt nai muối. Trần Nhật Duật không chút ngần ngại, bình thản nhón một miếng thịt, rồi vừa nhai vừa ngửa mặt, cầm gáo rượu bầu từ từ dốc vào mũi, uống ăn hết sức thành thạo [20].

Trịnh Giác Mật không kìm giữ được nữa:

– Nghe vua Trần vẫn nói Chiêu Văn Vương chính là hậu thân của các giống Phiên, Man, quả đúng là thế chăng?

Trần Nhật Duật khi ấy mới nhìn thẳng vào mặt Giác Mật một hồi lâu, rồi hỏi lại:

– Chúng ta xưa nay vẫn là anh em. Triều đình đối với dân Đà Giang xưa nay vẫn không có điều tiếng gì, cớ sao gây chuyện bất hòa?

Những tiếng kêu nhao nhao khắp nhà:

– Hắn là anh em với ta!

– Chúng ta là anh em với nhau thôi!

Dường như chỉ đợi có thế Trần Nhật Duật nhẹ nhàng vẫy gọi tiểu đồng tới gần. Viên trấn thủ của triều đình tự tay mở tráp, lấy ra những chiếc vòng bạc long lanh sáng trắng, trao tận tay cho từng đầu mục đạo Đà Giang, và chọn riêng cho chúa đạo Đà Giang một chiếc vòng lớn, lồng nguyên một chiếc vuốt cọp!

Những người cầm đầu đạo Đà Giang xa xôi chỉ còn biết sung sướng đón nhận lấy những tặng phẩm kết nghĩa đúng với phong tục cổ truyền của mình…

Phần II – Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật và cuộc chiến chống quân Nguyên Mông

Thoát Hoan cầm đầu 50 vạn đại binh sang xâm lược nước ta

Tình hình trong nước bấy giờ đã đủ yên ổn để có thể dốc toàn lực cự lại giặc. Vừa lúc đó, hoàng đế nhà Nguyên hung hăng điều động một đạo binh mã khổng lồ 50 vạn, do chính con trai y là Thoát Hoan làm tổng chỉ huy, chia đường tràn vào Đại Việt.

Quân xâm lược mưu toan từ ba mặt đè bẹp nước Đại Việt. Trên biên giới phía Bắc, hai cánh quân từ mạn Tây và mạn Đông dồn xuống. Liền đó, từ mạn biên giới phía Nam, một cánh quân nữa sẽ do đường Chiêm Thành đánh ra. Cả ba cánh quần đều phóng thẳng đến kinh đô Thăng Long: Chúng sẽ hội sư sau khi chiếm thành, bắt sống triều đình nhà Trần ở đấy.

Nước Đại Việt lập tức tung các lực lượng ra để đối phó. Vua Trần thân chinh cùng với các vương hầu, tướng lĩnh chia nhau kéo quân đi các ngả chặn giặc. Ngả phía Tây của mặt trận biên giới phía Bắc được giao trọn cho Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật. Vị thân vương sẽ đánh những trận lớn vào tuổi 32 của đời làm tướng còn rất trẻ của mình.

Cuộc rút quân đầy chiến lược và thử thách của Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật

Cửa trận đã khép lại. Hồi chuông thu quân như còn quyện mãi trong màn sương chiều đang buông  nhanh xuống núi rừng.

Những ngọn đuốc nhựa thông đã thắp sáng khu đại trại Thu Vật [21]. Chiêu Văn Vương cởi bộ chiến bào, ngồi nghỉ giữa quân doanh. Cả một ngày dốc quân chặn giặc, bây giờ mới được một lúc thư thái, bộ óc ham suy tính của vị tướng trẻ đã lập tức hoạt động. Liền ngay đó, cái điều ngờ ngợ cảm thấy ở giữa bãi chiến trường lúc ban ngày đã lớn vụt lên. Tại sao ở ngay trận đánh mở màn hôm nay, quân Nguyên chỉ giao chiến cầm chừng? Mấy lần tung quân kỵ mở đường qua cửa ải bị chặn lại, chúng không nôn nóng liều mạng tràn tới nữa. Cái cung cách tiến đánh như thế rõ ràng có điều khác với những kiến thức mà Nhật Duật đã thu lượm được về quân giặc. Nghe Bảo Văn Hầu [22] kể lại việc năm Nguyên Phong [23], ở trận Phù Lỗ [24], vừa nhác thấy quân ta bày trận ở bên kia bờ, giặc Thát bị vướng sông ở bờ bên này đã xô lên, dùng ngay cung tên bắn xuống nước để dò đáy, gặp chỗ nào không thấy tên nổi lên là lập tức phòng ngựa ào qua để tấn công. Thế mà bây giờ quân giặc lại chỉ đánh chác rời rạc, hẳn là còn đang mưu toan điều gì. Phải chăng chúng còn muốn đưa quân bọc sau quân ta rồi mới hai mặt giáp công?

Một hồi trống hiệu giật giọng vọng tới. Quân canh đưa vào trình một người lính khắp người bết mồ hôi và bụi bậm đường trường. Nhận ra sắc phục lính Thánh Dực [25], Nhật Duật đã linh cảm ngay một biến cố hệ trọng. Nhưng viên tướng trẻ vẫn không hề đổi sắc mặt, chỉ rướn cặp lông mày đò hỏi. Người lính vừa từ chỗ vua Trần gấp đường tìm đến vội vã trình ngay tình hình: ở mạn Đông của mặt trận biên giới, quân ta do vua Trần và Hưng Đạo Vương chỉ huy đã giao chiến lớn với đại binh của giặc ở Vạn Kiếp [26]. Thế giặc rất mạnh và Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Vương đã cho lệnh lui quân để bảo toàn lực lượng…

Truyền cho dẫn người lính Thánh Dực đi nghỉ, Trần Nhật Duật ngồi giữa quân doanh điềm tĩnh tính toán. Đại cuộc như thế, lui quân là phải. Nhưng ở đây, ta và giặc đều mới vào trận. Nhất đán rút đi là việc dễ bị đuổi đánh. Phải có cách lui quân sao cho an toàn…

Suốt đêm đó, rồi cả ngày hôm sau nữa, viên tướng trẻ phụ trách gánh nặng của mặt trận biên giới phía Tây không hề chớp mắt. Nhật Duật căng óc liệu định từng chi tiết trước mắt của cuộc rút quân, cũng như cả những công việc lâu dài về sau.

Nhưng quân lính dưới trướng vẫn chỉ thấy chủ tướng của mình thản nhiên, ung dung như mọi ngày. Và một hôm sau thì tất cả đều đã gọn ghẽ, nhẹ nhàng xuống thuyền kín dòng sông Chảy đổ xuôi, Trần Nhật Duật đã quyết định chọn đường sông để rút quân, dựa vào sở trường sông nước của quân nhà để hạn chế thế mạnh trên bộ của kẻ địch. Quân ta sẽ từ sông Chảy vào sông Lô rồi ra Nhị Hà, về Thăng Long.

Đoàn chu sư của Trần Nhật Duật vừa rút lui được một chặng đường thì đã thấy hậu quân báo lên: có dấu hiệu giặc đuổi theo! Trần Nhật Duật lên thẳng lầu thuyền cao, nheo mắt nhìn kỹ về phía sau. Cát bụi đang bốc lên ở cả hai bên bờ sông. Quân giặc đúng là đang men theo dọc sông để bám gót quân ta. Nhưng đám bụi quân hành trông mới lờ lững, thung dung làm sao! Đuổi theo quân ta mà sao chúng chậm chạp làm vậy?

Mối nghi ngờ lại lóe lên, viên tướng trẻ thận trọng phái ngay mấy chiếc thuyền nhẹ chèo gấp về phía trước dò đường. Quả nhiên, chẳng bao lâu đã có tin báo về: một cánh quân giặc đã cắt ngang sông ở mạn hạ lưu!

Trần Nhật Duật lục lại trí nhớ, hình dung ra địa thế quanh miền và cân nhắc tình hỉnh rất nhanh. Sau đấy, rất bình tĩnh, viên tướng trẻ hạ lệnh ghé thuyền vào bờ hữu ngạn, rút hết quân lên bộ, nhẹ nhàng tạt vào rừng, tắt đường rút về phía Tây. Cái bẫy quỷ quyệt mà quân giặc dụng công giương lên, không ngờ lại để lộ một lỗ hổng tai hại này!

Nhưng, vừa đưa được đội quân an toàn về đến Bạch Hạc [27], Trần Nhật Duật đã nhận thêm được tin dữ nữa: mới ngày hôm qua [28], sau trận đánh chặn ở bến sông Hồng ngoại thành Thăng Long, đại quân triều đình đã bỏ kinh thành, rút xa hơn nữa về phía Nam – về phủ Thiên Trường [29]. Tướng giặc Thoát Hoan đã chiếm tòa kinh đô bỏ trống. Và thế là đường về với quân triều đình của Trần Nhật Duật bị giặc chặn ngang ở quãng ấy!

Thử thách đến với đạo quân của viên tướng trẻ tuổi lần này quả là lớn. Trong quân ngũ đã thoáng thấy những ánh mắt lo ngại. Nhưng một mệnh lệnh kiên quyết đã bay ra: toàn quân sẽ tạt xa nữa về phía Tây, đi xuyên vùng các tộc Phiên Man, vòng qua miền giặc chiếm đóng mà về với đại quân ở Thiên Trường!

Trần Nhật Duật đã cho lệnh triệu ngay các bộ tướng đến dưới trướng. Nhưng trước đó, vị tướng trẻ đã kịp gọi riêng viên đạo sĩ của nước Tống, Hứa Tông Đạo – bấy lâu nay vẫn cho đi theo quân ngũ – dặn dò cặn kẽ:

– Hứa đạo sĩ! Mấy năm nay thu nạp người tài ở dưới trướng, bây giờ mới là lúc ta cần đến ông. Hãy thiết lập một đàn tế trời ở ngay bờ sông Bạch Hạc này! Ngày mai, trước lúc quân sĩ lên đường, đạo sĩ sẽ là người lo việc làm lễ ăn thề cho toàn quân, để mọi người đều yên lòng theo ta đánh giặc!

Sau đấy, giữa các bộ tướng, Trần Nhật Duật điềm đạm nói:

– Vận nước gian nan thì mới thấy rõ lòng người. Dẫn quân qua vùng Phiên Man để về với triều đình là việc khó mà dễ. Khó vì đường xa hiểm trở. Dễ vì thung thổ ở đây ta đã thuộc như lòng bàn tay. Lại thêm các dân Phiên Man năm trước đã đều theo Trịnh Giác Mật một dạ liên kết với triều đình. Vậy chỉ còn cần chư tướng cùng quân sĩ dốc lòng. Ngày mai, Hứa đạo sĩ chủ trì lễ cắt tóc tuyên thệ, nguyện lấy lòng trung để báo ơn vua của tất cả mọi người!

Rút phắt thanh gươm bên sườn, Trần Nhật Duật cắt ngọt ngay một vạt tóc của mình và tiếp tục nói đều đều:

– Kẻ nào trong chúng ta mà đổi dạ thay lòng thì sẽ như mớ tóc này! [30]

Trận thắng nổi tiếng của Chiêu Văn Vương ở cửa Hàm Tử

Đã qua rồi những ngày gian khổ để chắt chiu chuẩn bị cho thời cơ hưng khởi nức lòng bấy giờ. Đạo quân mà Trần Nhật Duật vượt núi rừng đưa được vào nguyên vẹn về Thiên Trường, nay đã đến lúc tung hoàng thỏa chí.

Mấy hôm trước, trong cuộc họp bàn với các tướng lĩnh thân cận, Hưng Đạo Vương đã tâu vua Trần cho lệnh bắt đầu phản công, và chọn phòng tuyến của giặc Nguyên xây dựng trên sông Hồng làm hướng tiến đánh trước tiên. Vua Trần chấp nhận kế sách ấy, và hồ hởi nói với mội người:

– Quân giặc nhiều năm đi xa, quân nhu chở đi vạn dặm, tất rất mệt nhọc. Lấy nhàn đổi mệt, trước hết làm mất khí thế của chúng thì nhất định phá được! [31]

Và thế là trận đánh mở màn do chính Quốc Công Tiết Chế [32] chỉ huy, nhằm vào đại đồn A Lỗ [33] của giặc Nguyên đã bùng nổ. Quân ta xung trận với khí thế ngất trời, đánh tan tác cánh quân trú phòng A Lỗ của tên tướng Vạn Hộ Lưu Thế Anh, buộc tên tướng giặc khét tiếng gian hùng này phải cắm đầu tháo chạy.

Rồi đó, đến lượt Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật! Mục tiêu của trận đánh lớn giao phó cho viên tướng trẻ, chính là cửa Hàm Tử [34] của quân giặc. Nhận được lệnh ra quân, Trần Nhật Duật lập tức cho dàn sẵn binh thuyền. Một mặt, truyền lệnh cho gọi riêng viên tướng Tống Triệu Trung đến dưới trướng. Như ngày nào đã giao nhiệm vụ cho đạo sĩ Hứa Tông Đạo trên bến Bạch Hạc, lần này viên tướng trẻ của nhà Trần cũng lựa lời khích lệ Triệu Trung, rồi ghé sát vào tai, thì thầm mật lệnh. Không biết Nhật Duật đã nói những gì mà chỉ thấy cuối cùng, Triệu Trung sáng bừng nét mặt, vòng tay nói thật cảm kích:

– Được một lần sống lại cùng cố quốc như thế, Triệu Trung này dẫu gan óc lầy đất cũng hả lòng!

Triệu Trung vừa ra đi thì Trần Nhật Duật cũng ban bố lệnh tiến lui cho quân sĩ dưới trướng. Sau đấy thì toàn quân lên thuyền nhằm thẳng cửa Hàm Tử tiến gấp.

Đoàn chu sư của Trần Nhật Duật dồn nhanh đội hình tiến quân để xông thẳng vào thủy trại của giặc, xung sát cực kỳ dũng mãnh. Chiếc thuyển giặc Nguyên gắng gượng chống cự được một chặp thì phải gật đầu vào bờ, nhờ quân bộ tiếp cứu. Theo dõi trận đánh, thấy thế trận đã chuyển, Trần Nhật Duật, sau một thoáng cân nhắc, đã vớ ngay chiếu dùi trống trận, thúc một hồi dài. Trao lại dùi trống cho một viên tùy tướng, Nhật Duật nhảy ngay xuống một chiếc thuyền nhẹ, tuốt gươm vẫy quân ồ ạt tràn lên bờ. Đạo quân thiện chiến của Trần Nhật Duật lăn xả vào trận giặc đang bắt đầu rối loạn, công phá dữ dội. Từng đám từng đám xác giặc đổ gục. chỗ này một tên tướng rống lên, ngã nhào xuống chân ngựa. Chỗ kia, một lá cờ hiệu bị chém rơi, giẫm nát.

Vừa lúc ấy, từ phía sau hàng trận giặc Nguyên cũng xuất hiện một cánh quân lạ. Lá cờ hiệu dẫn đầu cánh quân mang chữ “Tống” cự lớn. Tiếng trống thúc lẫn với tiếng quân reo dội tới, nghe cũng lạ tai: tiếng Tống! Cuối cùng, khi cánh quân đã áp tới gần, đã có thể nhận ra những bóng người mặc toàn sắc phục của quân Tống, thì những loạt tên từ những chiếc cung hai cánh lớn – thứ vũ khí lợi hại chỉ riêng những đạo quân cung thủ đặc biệt của Tống triều mới có – đã bay như mưa rào vào phía sau hàng trận quân Nguyên.

Một cảnh cực kỳ hỗn loạn chưa từng thấy, diễn ra ngay giữa hàng trận quân giặc. Bị đánh dồn từ hai mặt một bên là đạo quân của Trần Nhật Duật vẫn ào ào xông tới, mạnh mẽ chẻ tre, một bên là cánh quân Tống triều mà lũ giặc Nguyên kinh hãi rụng rời, tưởng đâu là họ khôi phục được quốc triều, mới từ đất Tống kéo sang chi viện cho quân Trần – toàn trại binh Nguyên trên cửa Hàm Tử phúc chốc vỡ tan, bị giết một phần, còn thì bị bắt vô số [35].

Hai cánh quân vừa giáp công ở cửa Hàm Tử đã gặp nhau. Tướng Triệu Trung – phải chính là viên gia tướng được thu nạp dưới trướng Trần Nhật Duật, theo mật lệnh của chủ tướng, đã cho bộ hạ của mình một phen dùng lại sắc phục của nước mình, góp phần cùng quân Trần đánh tan kẻ thù chung như lời khích lệ của Nhật Duật ngày nào – bây giờ tiến thẳng đến trước vị chủ tướng trẻ tuổi mà mưu trí như thần, dâng lá cờ của tướng Nguyên vừa cướp được, giữa tiếng reo vui đại thắng của quân sĩ [36].

Thu phục lại Thăng Long

Đoàn chiến thuyền lại ken đặc mặt nước đỏ ngầu phù sa, vùn vụt lướt sóng, tiến lên phía trước. Chu sư nhà Trần đang rầm rộ ngược sông Hồng về thu phục lại Thăng Long.

Ở chiếc kỳ hạm đi đầu, Trần Nhật Duật đứng thẳng người dưới lá cờ hiệu mang hàng chữ “Chiêu Văn Vương, Trần”. Đôi mắt của viên tướng trẻ mở to, bao quát cả một vùng cảnh quan đang trải ra bao la phía trước. Thốt nhiên, từ một điểm lung linh sâu thẳm của ký ức viên tướng trẻ, hiện dần lên cảnh tượng của hơn 20 năm trước – cảnh tượng của đoàn thuyền hoàng gia tươi vui, hồ hởi ngược sông trở lại kinh thành, sau trận thắng giặc năm Nguyên Phong [37]. Phải rồi, vẫn đất kia, sông này. Ngày ấy, Thăng Long giải phóng vẫy gọi đoàn thuyền. Bây giờ, Thăng Long cũng đang mong chờ đại quân tiến về giải phóng. Viên tướng trẻ của nhà Trần bỗng nhớ lại, rõ mồn một, hình ảnh của Linh từ quốc mẫu và câu chuyện trên mũi thuyền giữa bà quốc mẫu cùng đứa cháu thơ dại – vị hoàng tử nhỏ tuổi mà đã ham hiểu biết…

Tự nhiên, Trần Nhật Duật thấy mình muốn mỉm cười. Nhưng viên tướng trẻ vẫn quen không để lộ cảm xúc ra ngoài nét mặt, mặc dầu trái tim đang rộn lên những nhịp đập tự hào. Từ chỗ phải chạy giặc lần ấy, đến bây giờ, lần này, đã xuất hiện một vị tướng trẻ, đóng góp một phần không nhỏ vào sự nghiệp bảo vệ đất nước. Ôi, Đất Nước, những ngày tắm mình trong giông bão thử thách quyết liệt như thế này, thật đã khiến cho những ai biết gắng sức mình sống cho xứng đáng, đều sẽ vụt lớn bổng lên, diệu kỳ biết bao [38].

Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật – LichSu.Org
Theo Văn Lang

Chú thích trong truyện Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật

  1. Khúc sông Hồng chảy qua miền Lý Nhân (Hà Nam), nơi nhà Trần thường chọn làm chỗ lánh giặc ngoại xâm của hoàng gia.
  2. Theo cách gọi của Trần Hưng Đạo trong Hịch tướng sĩ. Đây là tướng quân phía Mông Cổ, cầm đầu cuộc xâm lược Việt Nam năm 1258 này, còn được gọi là Ngột Lương Hợp Thai.
  3. Tên thật là Trần Thị Dung, vợ thái sư Trần Thủ Độ – người nắm mọi quyền binh của nhà Trần lúc sơ khơi, thường được gọi là “quốc phụ”.
  4. Hoặc Thát Đát, phiên âm từ Tatar – Tên gọi đế quốc phong kiến Mông Cổ ở đời Trần.
  5. Sách Lịch triều hiến chương loại chí chép về Trần Nhật Duật: “Ông là người nhã nhặn điềm đạm; mừng, giận không bao giờ lộ ra sắc mặt”.
  6. Tên hiệu Trần Nhật Duật. Sử cữ chép rằng vua Trần Thái Tông nhờ đạo sĩ cầu tự nằm mộng thấy Ngọc Hoàng thượng đế sai Chiêu Văn đồng tử giáng sinh; đến khi hạ sinh Trần Nhật Duật thì cũng thấy ở cánh tay đã có sẵn hai chữ “Chiêu Văn”, bèn lấy tên ấy đặt làm tên hiệu cho Trần Nhật Duật.
  7. Miền Tây Bắc và hữu ngạn thượng du sông Hồng. Đại Việt sử ký toàn thư chép: Mùa xuân năm 1258, ban thưởng cho trại chủ Quy Hòa là Hà Bổng tước hầu, vì có công tập kích giặc.
  8. Chiếu thư của vua Mông Cổ gửi vua Trần năm 1278, chép trong An Nam chí lược.
  9. Thuộc Trực Lệ, ngay gần Bắc Kinh bây giờ.
  10. Đoạn này viết theo tài liệu ở các sách Đại Việt sử ký toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí và Việt sử thông giám cương mục.
  11. Bộ sách lớn của Trung Quốc vào đời Tống (966 – 1284), do Nhạc Sử biên soạn, ghi chép những sự việc quan sát được ở đời Thái Bình hưng quốc (976 – 984) trên đất Trung Hoa và các miền lân cận.
  12. Sách của Chu Khứ Phi, cũng đời Tống, chuyên khảo về miền đất phía Nam nước Trung Hoa.
  13. Miền đất từ núi Ngũ Lĩnh trở về phía Nam. Đấy là địa bàn của dân tộc người Việt thời cổ, bị cắt nhập vào đất đai của người Hán.
  14. Năm 1279, sau hơn 40 năm kháng cự người Mông Cổ, căn cứ cuối cùng của triều đình Nam Tống ở Nhai Sơn, (Tân Hội – Quảng Đông) bị tấn công, vua Tống Triệu Bính phải nhảy xuống biển tự tử.
  15. Năm 1278, một năm trước khi Tống mất, Văn Thiên Tường, nhà thơ yêu nước nổi tiếng của nhân dân Trung Quốc bị xâm lược Mông Cổ bắt. Đáp lại lời dụ dỗ của giặc, để bầy tỏ chí khí của mình và động viên người dân đánh giặc, ông đã làm nhiều bài thơ tráng khí, trong đó có 2 câu thơ nổi tiếng nói trên.
  16. Đơn vị hành chính ở miền núi của thời nhà Trần, thuộc miền Tây Bắc ngày nay.
  17. Cơ quan tham mưu và quyền lực tối cao của triều đình phong kiến.
  18. Theo sách Hưng Hóa phú của Vũ Phạm Hàm thì nơi Nhật Duật bình Giác Mật là miền Chợ Bờ (Hòa Bình) ngày nay.
  19. Câu này chép theo sách Đại Việt sử ký toàn thư.
  20. Đây là tục “tỵ ẩm”: đổ rượu vào mũi uống, trong khi vẫn ăn nuốt bình thường, mà ở một vài dân tộc ít người ở Tây Bắc hiện nay vẫn còn thấy.
  21. Nay là vùng Yên Bình, tỉnh Yên Bái.
  22. Tước phong của Lê Tần, người được vua Trần cho đổi tên là Lê Phụ Trần (người họ Lê giúp nhà Trần) – anh hùng của lần kháng chiến chống xâm lược Mông Cổ năm 1258.
  23. Niên hiệu dùng trong khoảng 1251 – 1258 của vua Trần Thái Tông.
  24. Thuộc huyện Đa Phúc, Hà Nội bây giờ.
  25. Lính cận vệ của vua Trần.
  26. Đất huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương ngày nay.
  27. Ngã ba sông Hồng, sông Lô, sông Đà, thuộc Phú Thọ ngày nay.
  28. Ngày 19 – 2 – 1285.
  29. Nam Định bây giờ.
  30. Về sau, chính đạo sĩ Hứa Tông Đạo đã ghi lại việc cắt tóc ăn thề ở sông Bạch Hạc của đoàn quân Trần Nhật Duật trong bài soạn văn năm 1321, để khắc trên quả chuông ở Thông Thánh Quán (gần đầu cầu Việt Trì bây giờ). Xem tài liệu của Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm: Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông (thế kỷ XIII).
  31. Câu này chép theo Đại Việt sử ký toàn thư.
  32. Chức tước của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trong lần kháng chiến chống xâm lược Mông Cổ năm 1285.
  33. Chỗ Sông Hồng nối với sông Luộc.
  34. Nay ở trên sông Hồng, thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
  35. Trong bài thơ nổi tiếng, cảm tác vào lúc ăn mừng đại thắng cuộc xâm lược của giặc Nguyên năm 1285, Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải chỉ nhắc tới hai trận đánh tiêu biểu của cuộc kháng chiến, trong đó, trận Hàm Tử là một, và nói gọn thành tích của trận này: “Cầm Hồ Hàm Tử Quan” (Cửa Hàm Tử bắt thù)!
  36. Đại Việt sử ký toàn thư chép: Tháng tư (Âm lịch) 1285, “quan quân cùng quân Nguyên giao chiến ở cửa Hàm Tử. Chư quân đều ở đó. Chỉ có quân của Chiêu Văn Vương Nhật Duật có quân Tống, mặc áo Tống, cầm cung tên để đánh… Quân Nguyên thấy đều kinh hãi, bảo nhau là có người Tống sang đánh, giúp vì thế thua chạy”.
  37. Niên hiệu dùng trong những năm 1251 – 1258 của vua Trần Thái Tông.
  38. Trần Nhật Duật còn sống đến năm 77 tuổi (1330). Nhưng ngay từ năm 1285, “bàn về chiến công, ông đứng hàng đầu, được phong Tá thánh Thái Sư” (Lịch triều hiến chương loại chí). Là “thân vương quý hiển trải thờ 4 triều (vua nhà Trần)… thông hiểu kinh điển, giỏi âm luật, được người đời đương thời khen là bậc hiểu biết rộng rãi, những văn thư của triều đình đều là do tay ông thảo ra” (Lịch triều hiến chương loại chí). Đến đời vua Trần Minh Tông (1314 – 1329) Trần Nhật Duật còn được tặng phong đến những chức tước: “Nhập nội kiểm hiệu Thái Úy, Bình Thái Đô Nguyên Soái, Thượng trụ quốc Khai quốc vương” (theo lời Bài văn trên chuông Thông Thánh quán). Một năm trước khi mất, lại được phong làm Đại Vương (Đại Việt sử ký toàn thư).

Những câu chuyện kể về danh nhân Việt Nam

Trong suốt chiều dài lịch sử hào hùng của dân tộc, có rất nhiều các bậc danh nhân nổi tiếng được người dân yêu mến, kính trọng, lập đền thờ tưởng nhớ. Những câu chuyện về họ đôi khi được truyền thuyết hóa thành những câu chuyện dân gian lưu truyền từ đời này sang đời khác.

Để giúp các bạn có cái nhìn sâu hơn về lịch sử của dân tộc, LichSu.Org xin giới thiệu đến bạn đọc những câu chuyện kể về các bậc danh nhân Việt Nam vô cùng hấp dẫn qua từng giai đoạn lịch sử.

1 thought on “Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật [Danh tướng và vương tử nhà Trần]”

Leave a Comment

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.