Chuyện kể về Ngô Thì Nhậm
Ngô Thì Nhậm (1746 – 1803), là một danh sĩ nổi tiếng thời Hậu Lê và Tây Sơn, đã có công lớn trong việc giúp Quang Trung đánh lui 20 vạn quân Thanh xâm lược.
Phần I – Làm quan thời vua Lê – chúa Trịnh
Ngô Thì Nhậm và cuộc chiến tranh giành quyền lực trong triều
Nhà Ngô Thì Nhậm ở trên bờ sông Nhuệ. Từ đấy về kinh thành, đi cáng đôi, chạy gằn, chỉ mất chưa đầy nửa buổi. Ngô Thì Nhậm vì vậy hay ở quê nhà, mặc dù ông làm quan to trong triều, “Hàn lâm hiệu thảo lễ khoa cấp sự trung” là một chức quan có tiếng tăm của Ngô Thì Nhậm ở triều vua Lê. Nhưng chức Gia thần và Tùy giảng của thế tử nhà Trịnh mới tạo cho ông một cái thế đặc biệt. Chúa tin cậy, vua nể vì, và thế tử sắp nối nghiệp thì kính sợ. Còn các quan trong triều ngoài trấn, hiển nhiên là phải quý trọng.
Nhưng Ngô Thì Nhậm vẫn không thích ở nơi dinh thự tại kinh thành. Ông thường tìm dịp về quê nhà – làng Tả Thanh Oai, trấn Sơn Nam [1]. Ngôi nhà gỗ lớn mà thanh bạch, chỉ mới được mở mang từ khi Ngô Thì Sĩ, thân phụ của Nhậm, sau một thuở hàn vi dài, nhờ tài học và đức độ, được chúa Trịnh vời vào triều, cho làm quan. Làm quan rồi mới thi đỗ tiến sĩ và chỉ chiếm bảng vàng bia đá trước con trai có 9 năm.
Ngô Thì Nhậm hẳn là chịu nhiều ảnh hưởng của cha cũng như của dòng họ mình. Gia đình họ Ngô Thì ở Thanh Oai là một gia đình nho học nổi tiếng, liền 7 đời sản sinh những nho sĩ có tên tuổi trong sử sách và học thuật nước nhà. Ngô Thì Nhậm cũng là một người kiệt liệt trong số ấy. Khoa thi Hội năm Ất Mùi (1775), 29 tuổi, Nhậm đỗ tiến sĩ. Ngay khi ấy, tiếng đồn về học vấn và tài văn chương của quan tân khoa tiến sĩ đã lẫy lừng khắp ngả. Và nho sĩ quan lại, cũng từ khắp ngả tìm đến kết thân. Thơ phú xướng họa, rồi những lời khuyên bảo cặn kẽ, những hành động giúp đỡ hết lòng – tài năng, sự chín chắn và thái độ chân tình của Ngô Thì Nhậm đã nhanh chóng chinh phục được các danh sĩ và bạn đồng liêu. Dinh thự họ Ngô ở kinh thành không lúc nào ngớt khách khứa, bạn bè.
Nhưng Ngô Thì Nhậm chẳng bao giờ để cho mình bị lôi cuốn vào những chuyện phù phiếm. Chăm việc quan, Ngô cũng chăm cả việc đọc sách và trước thuật. Sở dĩ lưu luyến cảnh quê hương tĩnh mặc mà xa lánh chốn đô hội, có phần cũng vì Ngô Thì Nhậm đang say với việc trước thuật của mình. Thêm chương, thêm bài cho bộ Hí doãn văn tập [2] đã khá dầy dặn, Ngô Thì Nhậm còn dồn sức viết vào bộ Hoàng Lê nhất thống chí đang làm cho ông mê mải lâu nay.
Từ ít lâu nay, cuộc đời làm quan dần dần trở nên vô vị đối với Ngô Thì Nhậm. Các cớ chính khiến ông năng tìm dịp lánh mình về ở chốn quê nhà là ở chỗ ấy. Và bộ sách Hoàng lê nhất thống chí mà ông đang dày công, khởi thảo, chính là nơi hóa thân của những sự việc rối ren đang diễn ra trong cuộc đời làm quan của Ngô Thì Nhậm đó.
Viên quan trẻ họ Ngô xử thế thận trọng như tính tình nghiêm cẩn của mình. Nhưng cái chế độ mà ông bỏ tâm sức đắp xây, hàn gắn, thật đã quá mục nát. Tiếng dân ta thán tưởng đã thấu đến trời. Những cuộc nổi dậy bùng ra ở khắp xứ. Vậy mà trong phủ, ngoài triều, tôn thất, quý tộc và quan lại vẫn chỉ chăm việc hành lạc và tranh chấp thoán đoạt. Tuổi trung niên sung sức làm việc của Ngô Thì Nhậm đã phải mất quá nhiều ngày tháng để giữ mình và đối phó với những âm mưu, cạm bẫy phiền toái như thế.
Vụ án lớn mà Ngô Thì Nhậm buộc phải tham gia khi vừa tròn 35 tuổi, là vụ mưu phản loạn của chính ngay thế tử Trịnh Tông, học trò của ông. Lo ngôi chùa của mình bị Đặng Thị Huệ – cung phi đang được cha mình quá sức sủng ái – lăm le kết bè đảng, đưa đứa em cùng cha khác mẹ là Trịnh Cán ra tranh mất. Trịnh Tông đã ngầm liên kết với các chức Trấn thủ Kinh Bắc, Sơn Tây dấy quân cướp ngôi. Công việc chẳng may bại lộ. Chúa Trịnh nổi cơn lôi đình, giao ngay vụ án cướp ngôi cho Ngô Thì Nhậm xét xử. Lúc ấy Ngô cũng vừa được thăng chức Thị lang bộ Công.
Quan tân Thị lang bị đẩy vào một tình thế rất khó khăn. Một bên, Trấn thủ Kinh Bắc Nguyễn Khắc Tuân, Trấn Thủ Sơn Tây Nguyễn Khản, đều là chỗ bạn bè thâm giao. Và Trịnh Tông cũng là học trò. Nhưng một bên nữa, còn là nhiệm vụ và sự thúc ép của chúa Trịnh, cùng bè đảng của Đặng Thị Huệ. Tài trí đến mấy cũng phải lúng túng trong cảnh ngộ này!
Giữa lúc ấy, bỗng có tin từ Lạng Sơn báo về: Trấn thủ Ngô Thì Sĩ bị bệnh mất! Việc tang ma đối với kẻ sĩ là hệ trọng hàng đầu. Ngô Thì Nhậm lập tức xin cáo quan về chịu tang cha…
Ma chay xong, Ngô Thì Nhậm vẫn đóng cửa ở lại chốn quê nhà. Người có đại tang phải xa lánh thế sự trọn ba năm. Thật chẳng có dịp nào tốt hơn để rời bỏ cái sân khấu chính trị đầy bất trắc lúc ấy. Nhưng tin dữ vẫn từ kinh thành lọt qua cửa mà tới tai người ở ẩn: bọn Nguyễn Khắc Tuân đều đã bị giết; thế tử Trịnh Tông bị hạ ngục. Sau đó, Chúa Trịnh cũng mất. Phe đảng Đặng Thị Huệ phò Trịnh Cán lên ngôi. Nhưng kiêu binh các trấn Thanh – Nghệ phá ngục cứu Trịnh Tông, phế Trịnh Cán, giết phe đảng Đặng Thị Huệ…
Ngô Thì Nhậm ôm đầu thở dài. Ông cảm thấy có một sự rạn nứt quá lớn. Không, hơn thế nữa, một sự sụp đổ, rã rời. Ít lâu nay, vầng trán hằn những nếp nhăn quá sớm, ông thường suy nghĩ miên man về thế sự. Lại chú ý tra tìm kinh sách nhà Phật. Ông có ý định viết thêm một cuốn sách nữa – cuốn sách triết lý Trúc lâm tôn chỉ nguyên thanh [3]…
Quãng thời gian chịu tang cha
Khói trầm từ chiếc đồng nhỏ vờn một làn hương thơm ngát. Ngô Thì Nhậm ngồi im lặng trước án thư. Ông vừa nhận được một phong thư lạ. Khách đưa thư, người bám đầy bụi đường trường, chợt đến rồi lại chợt đi, lặng lẽ nhưng chẳng có chút ngỡ ngàng nào. Quanh đây, dường như vẫn có những cặp mắt từ xa chăm chú dõi theo…
“Kể từ ngày được cùng ngài hội ngộ. Kỷ tôi vẫn một lòng tưởng nhớ…” – Ngô Thì Nhậm nhẩm khẽ lại lá thư. Phải, Trần Văn Kỷ, danh sĩ đất Thuận Hóa [4], mấy năm trước, lặn lội từ Đàng trong ra kinh thi Hội, có tìm đến gặp Ngô ở nơi dinh thự. Người khách xứ xa ấy, chỉ một lần sơ kiến mà đã để lại cho Ngô Thì Nhậm những ấn tượng thật sâu… Giờ đây, từ nơi con người ấy, một phong thư đã vượt trăm nghìn đường đất, đến nằm lặng lẽ ở góc án thư kia. Những lời thăm hỏi hàn huyên mà sao như rõ từng đường tơ mối chỉ rối bời ở trong nỗi lòng u ẩn của người ở ẩn. Lá thư, chỉ đến đoạn cuối mới có những dòng mang dụng ý – những hàng chữ nhắn nhủ: Ở ấp Tây Sơn, áo vải cờ đào, một bậc anh hùng cái thế đã xuất hiện, tài trí và sức mạnh xưa nay chưa từng thấy – Nguyễn Huệ, bậc cái thế anh hùng ấy, chí lớn trùm thiên hạ, chẳng bao lâu nữa sẽ thâu tóm giang sơn thành một mối…
Ngô Thì Nhậm khẽ thở dài: “Ông ta đã tìm được chân chúa…” – thở dài gần đây cũng đã trở thành thói quen đến quá sớm đối với một người chỉ mới bốn chục xuân thu như Ngô – “Trần Văn Kỷ vậy là đã có phận của ông ta. Nhưng còn ta, trung thần bất sự nhị quân [5] đã đem thân phò chúa Trịnh, thờ vua Lê, làm sao có thể mang lòng dạ khác?” – Và, Ngô Thì Nhậm lại khẽ thở dài…
Tiểu đồng chợt báo tin: nhà lại có khách! – Khẽ chau mày, tuy vậy, Ngô Thì Nhậm vẫn đứng dậy, cẩn thận sửa lại khăn áo rồi mới bước ra thềm.
Khách còn trẻ, nhưng bộ mặt và thân hình đã phì nộn trước tuổi, chiếc khăn thư sinh màu xanh không che nổi khoảng tóc trán cũng đã sớm rụng trơ trụi. Chủ nhân còn đang ngỡ ngàng thì khách đã tự xưng tên tuổi: Cậu ấm Đặng Trần Thường vốn nhà hào phú trong miền… Và vừa phân ngôi chủ khách thì cũng lại cậu ấm Thường ấy đã dẻo miệng ngay: xin được trình đại nhân về lời đồn của thiên hạ…
Câu chuyện từ cửa miệng có cặp môi mỏng, giảo hoạt của Đặng Trần Thường hôm ấy khiến Ngô Thì Nhậm quá đỗi sửng sốt. Có kẻ nào đã phao lên tin chính Ngô là người đã tố giác vụ án cướp ngôi của thế tử Trịnh Tông! Và để được thăng lên chức Thị lang, như thế là Ngô đã giết hại bốn mạng người, trong đó có cả cha mình: Ngô Thì Sĩ – Vì ngăn không nổi con trai đừng làm việc bất nhân bất nghĩa, đã tự vấn! “Sát tứ phụ nhi Thị lang” [6] – Đặng Trần Thường đã thản nhiên đọc lại câu ấy cho Ngô Thì Nhậm nghe.
Nhưng chưa phải đã hết. Đây mới chỉ là câu chuyện mào đầu. Lặn lội tới tận Tả Thanh Oai, cố sức cầu cạnh nhà ẩn sĩ họ Ngô mà chẳng chóng thì chầy, thế nào rồi cũng sẽ lại xuất đầu lộ diện chốn quan trường – đấy mới là dụng ý chính của Đặng Trần Thường. Nhờ vả, cầu khẩn từ trước, hẳn đến lúc hữu dụng, việc tiến thân sẽ trôi rất nhanh – Thường tính toán như vậy. Và vội vã, theo cung cách của những kẻ mờ mắt vì công danh thời ấy, Thường đã cố tìm cách ton hót thật vụng về…
Nhưng – không may cho Thường – từ sửng sốt đến phiền muộn. Ngô Thì Nhậm tê tái vì miệng lưỡi thế gian bao nhiêu, lại càng đau xót bấy nhiêu vì sĩ khí quá thấp kém của những kẻ đường đột, trắng trợn và dại ngu như Đặng Trần Thường. “Quan trường mà đầy rẫy những kẻ thế này thì vận nước đến ngày không thể không cậy được nữa rồi!”. Lặng lẽ, dầm bút vào nghiên mực, Ngô Thì Nhậm viết nhanh hàng chữ bỏ dở dang: “Công, hầu, khanh, tướng, vòng trần ai…”. Sau đấy, buông bút, ông lui vào buồng trong, gọi tiểu đồng dẫn khách xuống nhà ngang, truyền cho phải làm tiếp một bài phú,để thử văn tài.
Ngô Thì Nhậm đi thẳng ra bờ sông Nhuệ, tới chỗ ngồi quen thuộc trên rễ cây si già gần mé nước. Lơ đãng nhìn những chiếc tăm cá nổi trên dòng nước đục, ông với tay cầm lấy chiếc cần trúc ngà. Và thả dây câu…
Phần II – Ngô Thì Nhậm và nhà Tây Sơn
Ra nhập nhà Tây Sơn
Kinh thành Thăng Long bề ngoài lạnh vắng, lỗ đỗ những dinh thự, phủ đệ đổ nát, cháy trụi: mấy cơn binh lửa và việc báo oán trả thù đã lướt nhanh qua đây. Nhưng bên trong thì ì ầm, sôi sục, kinh thành đang trăn trở chuyển mình.
Đại doanh quân Tây Sơn khi ấy đóng ở phía Nam kinh thành, quanh vùng phủ chúa cũ. Đạo quân nông dân khởi nghĩa ấy, chỉ sau mấy trận trúc chẻ ngói tan, một lúc đã lật nhào cả các chế độ cũ mà non ba trăm năm tồn tại đã làm mục nát cả mấy chiếc ngai vàng và ngôi chúa Lê – Trịnh. Tướng Tây Sơn bách chiến bách thắng Nguyễn Huệ, dựng lều trận ở ngay giữa đại doanh của mình.
Từ chiếc lều trận ấy, lệnh truyền đi: hết thẩy các quan văn võ của triều đình cũ đều phải tới trực sẵn ở dinh bộ Lễ để theo lễ quan Võ Văn Ước đi yết kiến chúa Tây Sơn.
Ngô Thì Nhậm, từ nơi ở ẩn chốn quê nhà, đón nhận lệnh ấy mà buồn vui lẫn lộn. Từ trong nén đè khổ sở đã mấy năm, con người ham hoạt động, khao khát việc kinh bang tế thế ở trong ông bỗng sống dậy, khắc khoải bồn chồn. Vậy là Nguyễn Huệ, chí lớn trùm thiên hạ, như lời thư của Trần Văn Kỷ đã có lần nhắc gợi, bây giờ đã làm cuộc đổi đời ở đây rồi. Con người ấy đang ra lệnh gọi Ngô Thì Nhậm. Dịp tái tạo là đây rồi chăng? Nhưng đã đem thân thờ vua khác, liệu ân nghĩa mới có được vẹn toàn không?
Ngổn ngang tâm sự, Ngô Thì Nhậm bước vào dinh bộ Lễ khi trời còn rất sớm. Võ Văn Ước, người Đàng trong chưa thạo việc, ngỡ Nhậm là hoàng tử nhà Lê, vội mời ngồi ngang với mình trên sập cao. Trời sáng dần, và già, trẻ, cao, thấp, các bạn đồng liêu cũ của Nhậm lục tục kéo đến. Từ dưới thềm xa, những cựu thần triều Lê ấy đã phải lạy chào Võ Văn Ước. Ngồi nhận lạy như thế, có cả Ngô Thì Nhậm. Áy náy không yên vì chuyện ngộ nhận ác hại ấy. Ngô Thì Nhậm vội đứng dậy và… lúng túng đi ra. Võ Văn Ước ngạc nhiên hỏi tả hữu:
– “Người vừa ngồi đây là ai vậy?” [7]
Có tiếng trả lời:
– “Đấy là văn ban Ngô Thì Nhậm!”
Cơn giận của Ước bùng ngay ra giữa đám quan lại nhốn nháo:
– Ta vâng mệnh cai quản tất cả, sao lại được vô lễ thế!
Và một đám quân sĩ được tung ngay đi tìm bắt “con người vô lễ” ấy!
Vậy là cả ngày hôm đó, chỉ vì một chuyện vặt không đâu, Ngô Thì Nhậm đã phải mất công ẩn tránh vất vả. Lo lắng, bực bội, chợt nhớ đến Trần Văn Kỷ mà ông đoán chắc thế nào cũng đã được trọng dụng trong trướng lệnh Nguyễn Huệ, Ngô Thì Nhậm tìm đường đến thẳng đại quân Tây Sơn đều kính cẩn gọi là quan Trung thư lệnh Kỷ lễ hầu.
Sẩm tối, Ngô Thì Nhậm đã có mặt ở chỗ Trung thư lệnh Kỷ lễ hầu. Cố tri, tri kỷ tìm được nhau, nhất là trong cảnh ngộ này, sự mừng tủi, vồ vập đằm thắm là hiển nhiên. Trần Văn Kỷ nói ngay với Ngô Thì Nhậm:
– “Ông là bậc kỳ tài, không may bị tiếng gièm pha, trốn tránh hơn năm sáu năm nay, nhưng sự tích lũy hẳn là càng thêm tinh túy. Nay ra ứng dụng với đời, chính là hợp thời quá! Tôi đã đem tên ông trình với chúa thượng. Người khen tài ông có thể dùng làm việc lớn. Chính chúa thượng đã sai tôi đi tìm ông. Vậy không phải cần gì đến ông Ước nữa!” [8]
Câu chuyện rắc rối với Võ Văn Ước qua rồi thì trở thành trò vui. Cười với nhau cho hả, Trần Văn Kỷ sốt sắng dẫn Ngô Thì Nhậm đi thẳng đến chỗ Nguyễn Huệ ngay.
Đêm hôm ấy, một đêm tháng năm, năm Mậu Thân (1788), ánh sáng rừng rực của những cây đinh liệu nơi lều trận của Nguyễn Huệ đã soi tỏ cuộc gặp gỡ giữa người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ và viên quan văn tài trí mà lận đận Ngô Thì Nhậm.
Thân hình cao lớn bó gọn trong bộ vũ phục đỏ, tóc quăn da sần, mắt sáng như chớp, tiếng nói như chuông [9], Nguyễn Huệ thẳng thắn và cởi mở, vỗ về Ngô Thì Nhậm:
– “Ngày trước, người vì chúa Trịnh không dong, một mình bỏ nước mà đi. Nếu ta không đến đây, người làm sao thấy được bóng mặt trời? Có nhẽ đó cũng là ý trời muốn để dành người tài cho ta dùng. Vậy ngươi hãy cố gắng mà lo việc báo đáp. Thế là được!”
Ngoảnh sang phía Trần Văn Kỷ, Nguyễn Huệ tiếp luôn:
– “Đây là người do ta gây dựng lại. Nên thảo ngay tờ chế, phong làm chức Thị lang bộ Lại, tước Tinh phái hầu, cùng với Võ Văn Ước coi tất cả các quan văn võ của nhà Lê!”
Sức mạnh quả quyết, dứt khoát và thẳng thắn ở con người đứng đầu quân Tây Sơn ấy đã hoàn toàn chinh phục Ngô Thì Nhậm. Đắn đo, băn khoăn đến mấy thì trước sức mạnh tự nhiên mà kỳ lạ ấy, cũng đều tan biến. Ngô Thì Nhậm chỉ còn biết cúi đầu, tạ ơn…
Quân Thanh xâm lược, thế nước lâm nguy
Quả là Ngô Thì Nhậm đã được tái tạo. Con người đã vào tuổi 42 ấy như trẻ hẳn lại. Ông làm việc mê mải đề bù lại cho thời gian đã mất đi trong mấy năm qua. Nhưng thật ra, chính là để báo đáp cho cái chế độ mới, đã gây dựng lại cho ông đúng như lời Nguyễn Huệ đã nói.
Người đứng đầu triều Tây Sơn quả là có con mắt tinh đời và có tài dùng người. Ở lại Thăng Long chỉ một thời gian ngắn để nhanh giải quyết những công việc lớn của Bắc Hà, Nguyễn Huệ ngay sau đấy đã lại dẫn quân về Phú Xuân [10]; Đàng trong còn nhiều việc cần thiết đang chờ đợi hơn. Mở tiệc tiễn biệt trước lúc lên đường, Nguyễn Huệ đã cho triệu tập năm viên quan tướng thân tin, cố hựu của mình: Đại tư mã Ngô Văn Sở, nội hầu Phan Văn Lân, Chưởng phủ Nguyễn Văn Dụng, Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết, Thị lang bộ Hộ Trần Thuận Ngôn. Và thêm vào đấy là Ngô Thì Nhậm. Chúa Tây Sơn nói với tất cả, giọng tín cẩn mà thân thiết:
– “Sở và Lân là nanh vuốt của ta; Dụng và Ngôn là tâm phúc của ta; Tuyết là cháu của ta; còn Nhậm thì vừa là bề tôi vừa là khách của ta, lại là dòng văn hóa Bắc Hà thông thạo việc đời. Nay ta giao cho các ngươi cả mười một trấn trong toàn hạt. Những việc quan trọng trong nước, đều cho tùy tiện mà làm. Mọi việc cùng nhau họp bàn ổn thỏa, chớ vì kẻ cũ người mới mà xa cách nhau. Ai nấy phải đồng lòng hiệp sức, lo chung công việc để xứng đáng với sự trông nom của ta. Các ngươi hãy cố gắng nữa lên!”
Nói rồi, lên đường.
Được đặt vào một vị trí như thế và với thái độ như thế của chúa Tây Sơn, giữa những người đã bao năm vào sinh ra tử theo Nguyễn Huệ, Ngô Thì Nhậm càng chỉ còn có một cách hết lòng chăm lo công việc, cảm kích mà phấn chấn.
Và việc lớn đã đến. Cùng với những trận gió rét cuối năm tràn về là tin cấp báo từ quan ải: vua Lê Chiêu Thống cõng rắn cắn gà nhà đã rước 29 vạn quan Mãn Thanh vượt qua biên giới! [11]
Những bầy tôi trung của Nguyễn Huệ chịu mệnh trông nom đất Bắc Hà vội vàng vào cuộc họp bàn. Ý kiến gần như đã thống nhất. Và Chưởng phủ Nguyễn Văn Dụng là người đầu tiên nói ra ý kiến ấy:
– “Hồi cuối đời Trần, người Minh sang lấn nước ta. Bấy giờ Lê Thái Tổ khởi nghĩa vùng Lam Sơn, Thế lực không địch nổi họ. Nhưng hành binh theo cách khôn ngoan, lại hay dùng mưu mẹo giỏi giang, rồi nhờ khéo dùng cách mai phục, nhân lúc quân giặc không phòng bị mà đánh úp, cho nên có thể lấy ít quân mà đánh được kẻ nhiều quân. Võ công tuyệt lạ, ngàn thuở ngợi khen.
Nay người Thanh ở xa đến đây, trèo đèo vượt suối, ta lấy quân nghỉ ngơi mà đón đánh quân nhọc mệt, nhắm trước các nơi xung yếu, cho quân nấp sẵn để chờ, cứ làm theo kế ấy, lo gì không thắng?”.
Lập luận thật đã rành mạch; lại có cân nhắc cả kinh nghiệm xưa và tình hình trước mắt, nhất là phản ánh đầy đủ tư tưởng truyền thống quyết đánh của quân Tây Sơn! Bởi vậy, Ngô Thì Nhậm càng thấy bồn chồn không yên. Trách nhiệm của người thông thạo việc Bắc Hà mà Nguyễn Huệ giao cho cũng đè nặng trên ông. Và ông quả quyết phản bác ngay:
– “không phải thế đâu! Việc thiên hạ, tình tuy có giống nhau, nhưng thế lại có khác nhau. Sự được thua do đó cũng khác hẳn. Vưa kia quân Minh buông tuồng làm điều tàn bạo, người trong nước ai cũng muốn đuổi chúng đi, cho nên vua Lê Thái Tổ chỉ gọi một tiếng là xa gần đều hưởng ứng. Lòng người như thế nên hễ chỗ nào có quân mình mai phục thì người ta đều giấu kín cho, khiến giặc không hề biết. Sở dĩ thắng được giặc, đều bởi cớ ấy.
Ngày nay, những kẻ bầy tôi trốn tránh của nhà Lê đâu đâu cũng có, nghe tin quân Thanh sang cứu, họ đều nghển cổ mà trông. Sĩ dân trong nước giành nhau mà đón chúng. Quân ta mai phục ở đâu, địa thế hiểm hay không, số quân ít hay nhiều, quân giặc chưa biết thì họ đã báo trước với chúng. Quân cơ bị tiết lộ, tự nhiên mất hết mọi việc tiện lợi. Ấy là mình tự hãm mình vào chỗ chết. Còn hòng đánh úp được ai?”.
Tình thế quả là nghiêm trọng. Nhưng đấy lại chính là sự thức! Các tướng lĩnh Tây Sơn đều giật mình trước con mắt nhìn tinh tường của Ngô Thì Nhậm. Ngô Văn Sở gặng hỏi:
– Vậy thì nên làm thế nào?
Ngô Thì Nhậm lúc ấy mới đắn đo cân nhắc:
– “Phép dụng binh chỉ có một đánh, một giữ mà thôi. Nay quân Thanh sang đây, tiếng tăm rất lớn. Những kẻ trong nước làm nội ứng cho chúng, phần nhiều lại phao tin đồn nhảm, làm cho thanh thế của chúng to thêm, để cho lòng người sợ hãi, lay động. Số người Bắc Hà thuộc vào sổ quân của ta, hễ gặp dịp sơ hở là bỏ trốn liền. Đem đội quân ấy đi mà đánh, không khác gì xua bầy dê đi chọi cọp dữ. Không thua sao được?
Đến như việc đóng cửa thành mà cố thủ, thì lòng người đã không vững, ắt thế nào cũng sinh ra mối lo ở bên trong. Thật chẳng khác gì đem một con chạch bỏ vào giỏ cua!
Đánh đã chẳng được, mà giữ cũng không vững. Vậy thì cả hai chước đánh và giữ đều không phải là kế hay…”.
Nhìn khắp một lượt những khuôn mặt căng thẳng vì chăm chú lắng nghe của các tướng lĩnh Tây Sơn, Ngô Thì Nhậm nghỉ một lúc rồi dằn giọng nói tiếp:
– “Nghĩ cho cùng thì chỉ còn một cách này: Sớm sớm truyền cho thủy quân chở đầy các thuyền lương, thuận gió giương buồm, ra thẳng cửa biển, đến vùng Biện Sơn [12] mà đóng. Quân bộ thì sửa soạn khí giới, gióng trống lên đường, lui về giữ Tam Điệp [13]. Hai mặt thủy bộ liên lạc với nhau, giữ lấy chỗ hiểm yếu, rồi cho người chạy giấy về bẩm với chúa công. Thử xem quân Thanh đến thành, khu xử việc nhà Lê ra sao? Vua Chiêu Thống sau khi phục quốc, xếp đặt việc nước việc quân thế nào? Chờ chúa công ra, bấy giờ sẽ quyết chiến một phen, cũng chưa muộn gì!”
Những người dự bàn đều thở ra một hơi nhẹ nhõm. Thật là cả một kế sách vẹn toàn mà thần tình, chủ động! Tuy Vậy, Ngô Văn Sở còn băn khoăn:
– “Chúa công về Nam, đem thành này giao phó cho ta. Giặc đến thì phải sống chết với giặc, còn mất với thành, trên không thẹn là kẻ bề tôi giữ đất, dưới không phụ chức trách cầm quân. Nếu mới thấy bóng giặc mà đã bỏ trốn, bỏ thành cho giặc thì chẳng những mang tội với chúa công, mà người Bắc còn coi ta ra cái gì?”.
Đấy chính là điều băn khoăn trước tiên và cũng là cuối cùng của một kẻ cầm quân có trách nhiệm. Cho nên Ngô Thì Nhậm rành rẽ thuyết phục luôn:
– “Tướng giỏi đời xưa, lường thế giặc rồi mới đánh, nắm phần thắng rồi mới hành động, tùy theo tình thế thay đổi mà bày ra chước lạ. Cũng giống như đánh cờ, trước thì chịu thua người một nước, sau mới được người ta một nước, đừng có đem nước sau làm nước trước thế mới là tay cao cờ.
Nay ta bảo toàn lấy quân lực mà rút lui, không bỏ mất một mũi tên nào, cho chúng ngủ trọ một đêm rồi lại đuổi đi. Nếu có vì thế mà mắc lỗi, tôi xin sẽ bộc bạch với chúa công, thế nào cũng được chúa công lượng xét. Xin ông chớ nghi ngại”.
Lập luận và thái độ như thế của Ngô Thì Nhậm cuối cùng đã hoàn toàn chinh phục được các tướng lĩnh Tây Sơn. Rút khỏi Thăng Long, quân Tây Sơn sau đấy đã chỉnh tề đội ngũ kéo về Tam Điệp, lựa thế hiểm của núi và biển mà chia quân thủy bộ, dựa vào nhau án ngự…
Từ nơi phòng ngự nghiêm mật ấy, đô đốc Nguyễn Văn Tuyết, rạp người trên lưng ngựa, ngày đêm gấp đường về Phú Xuân cấp báo…
Tài năng của Ngô Thì Nhậm
“Nước cờ Tam Điệp” của Ngô Thì Nhậm quả là lợi hại. Và hiểu được nước cờ ấy, cũng như hiểu được cả người đã đi nước cờ ấy, lại cũng không phải ai khác mà chính là Nguyễn Huệ!
Vào những ngày giáp Tết Kỷ Dậu (1789), dẫn đầu 10 vạn tinh binh từ Phú Xuân qua Thanh – Nghệ đi đánh giặc Thanh, Nguyễn Huệ đã ra đến Tam Điệp, Ngô Văn Sở và các tướng lĩnh Tây Sơn đi đón chủ tướng, đều mang gươm trên lưng, xin chịu tội. Nguyễn Huệ rất vừa lòng trước thái độ ấy của những tôi trung của mình. Và chúa Tây Sơn bắt đầu quở trách mà chẳng có chút giận dữ nào trong từng lời:
– “Các ngươi đem thân thờ ta, đã làm đến chức tướng soái. Ta giao cho cả toàn hạt, lại cho tùy tiện làm vậy. Vậy mà giặc đến, không đánh nổi một trận, mới nghe tiếng đã chạy trước. Binh pháp dạy rằng: “Quân thua chém tướng”. Tội các ngươi đáng chết một vạn lần!”.
Nhìn khắp mặt các quan tướng. Nguyễn Huệ nói tiếp:
– “Song ta nghĩ các ngươi đều là hạng vũ dũng, chỉ biết gặp giặc là đánh, còn việc tùy cơ ứng biến thì không có tài. Cho nên ta để Ngô Thì Nhậm ở lại làm việc với các ngươi, chính là lo về điều đó! Bắc Hà mới yên, lòng người chưa phục, Thăng Long lại là nơi bị đánh cả bốn mặt, không có sông núi để nương tựa. Năm trước ta ra đánh đất ấy, chúa Trịnh quả nhiên không thể chống nổi, đó là chứng cớ rõ ràng. Các ngươi đông quân trơ trọi ở đấy, quân Thanh kéo sang, người trong kinh kỳ làm nội ứng cho chúng, thì các ngươi làm sao mà cử động được?”.
Bốn bề tướng sĩ im phăng phắc. Cặp mắt lấp lánh những tia sáng thích thú của chúa Tây Sơn nhìn thẳng vào Ngô Thì Nhậm. Nguyễn Huệ thong thả nói:
– “Các ngươi đã biết nín nhịn để tránh mũi nhọn của chúng, chia ra chặn giữ các nơi hiểm yếu, bên trong thì kích thích lòng quân, bên ngoài thì làm cho giặc kiêu căng. Khi mới nghe nói, ta đã đoán là do Ngô Thì Nhậm chủ mưu. Sau hỏi Văn Tuyết thì quả đúng là như vậy…”.
Tất cả mọi cặp mắt của các quan tướng đều dồn vào Ngô Thì Nhậm. Bừng bừng như vừa nhấp một ngụm rượu nặng, Ngô Thì Nhậm sụp xuống, lạy hai lạy tạ ơn, nhưng chính là để tỏ nỗi lòng cảm kích đối với người chủ tướng, đồng thời cũng chính là bậc tri kỷ lớn nhất của mình.
“Nước cờ Tam Điệp” của Ngô Thì Nhậm như thế là đã được phân tích, đánh giá, từ một đầu óc chính trị sắc nhạy và một cặp mắt chiến lược tinh tường. Nước cờ ấy đã tạo ra cái thế thắng quyết định cho toàn bộ ván cờ xuân Kỷ Dậu của Nguyễn Huệ: quét sạch 20 vạn giặc Thanh xâm lược ra khỏi bờ cõi!
Nhưng người anh hùng của phong trào nông dân Tây Sơn không chỉ đánh giá và sử dụng Ngô Thì Nhậm ở mức ấy. Dưới chân núi Tam Điệp, chính cũng vào những ngày giáp tết Kỷ Dậu, trước khi kết thúc ván cờ lịch sử đại thắng 20 vạn quân Thanh, Nguyễn Huệ đã nói với tả hữu:
– “Lần này ta thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mươi ngày là có thể đuổi được người Thanh. Nhưng nghĩ chúng là nước lớn gấp mười nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt, không phải phúc cho dân, nỡ nào mà làm như vậy?
Đến lúc ấy, chỉ có người khéo lời lẽ mới dẹp nổi binh đao, Việc ấy, phi Ngô Thì Nhậm thì không ai làm được!”.
Lại phải có con mắt rất sáng và lòng tin cực mạnh mới có được những lời lẽ phó thác như thế. Và quả nhiên, Ngô Thì Nhậm đã không phụ những lời ấy. Sau giông tố sấm sét từ thanh gươm của Nguyễn Huệ giáng vào quân Thanh, là dịp tấn công tung hoành bằng ngòi bút của Ngô Thì Nhậm. Thảo thư, viết chiếu, nhiều lúc thay lời Quang Trung, liền trong mấy năm sau chiến thắng xuân Kỷ Dậu, đứng đầu tất cả mọi việc giao thiệp với triều đình nhà Thanh… khôn khéo, kiên trì, linh hoạt và táo bạo, đứng vững trên cái thế cao của cả một cuộc chiến thắng phục hưng và vĩ đại, Ngô Thì Nhậm chẳng những đã phá được mưu lược trả thù của nhà Thanh, mà lại còn xoay chuyển tình hình, buộc nhà Thanh phải chính thức công nhận triều đại Tây Sơn là triều đại chính thống của đất nước! Hơn thế nữa, chủ trương tạo ra một phái đoàn Quang Trung Nguyễn Huệ giả mạo, đi sang tận kinh đô nhà Thanh, Ngô Thì Nhậm còn làm cho cả triều đình Mãn Thanh phải tỏ hết thịnh tình và nghi thức ưu đãi, kính nể và cảm thông với những người làm chủ mới của non sông chiến thắng…
Phần III – Sau khi nhà Tây Sơn sụp đổ
Triều đại Tây Sơn suy tàn
Những năm sống với Quang Trung Nguyễn Huệ là những năm đắc ý nhất trong toàn bộ cuộc đời của Ngô Thì Nhậm. Đấy cũng chính là những năm mà đất nước trải qua những cơn sóng gió và chuyển mình lớn lao. Đồng thời, đấy cũng là những năm của những chiến công cực kỳ hiển hách của đất nước, gắn liền với sự hưng khởi của phong trào nông dân Tây Sơn. Ngô Thì Nhậm đã được luyện rèn từ trong một thời thế như thế. Và ông, chủ yếu là do vạch được một đường đi thăng bằng giữa thời thế ấy; gắn bó với phong trào Tây Sơn và sự nghiệp cứu nước, nên đã tạo ra được những đóng góp thật xuất sắc đối với thời thế lúc ấy. Từ chức Thị lang bộ Lại, ông đã làm đến chức Thượng thư bộ Binh.
Năm 1792, Nguyễn Huệ, người anh hùng dân tộc đồng thời là minh chúa, ân nhân và tri kỷ của Ngô Thì Nhậm, đột nhiên trúng một cơn ác bệnh, từ trần giữa lúc còn đang ôm những hoài bão cao cả của mình, và những kỳ vọng lớn lao đặt dở ở Ngô Thì Nhậm. Triều đại Tây Sơn từ đấy cũng suy dần.
Trong vòng 10 năm, từ sau khi Nguyễn Huệ mất đến khi nhà Tây Sơn sụp đổ, người ta thấy Ngô Thì Nhậm, một lần nữa, lại năng tìm dịp trở về sống ở ngôi nhà cũ trên bờ sông Nhuệ, làng Tả Thanh Oai. Mái tóc đã đốm bạc của ông lại cúi nghiêng trên án thư. Bộ óc lớn của ông, sau một thời gian hoạt động căng thẳng và ghi nhận thêm bao bài học và kinh nghiệm, lại tập trung vào việc trước thuật. Ghi chép, tổng kết việc giao thiệp với nhà Thanh, Ngô Thì Nhậm viết các bộ Bang giao hảo thoại và Bang giao tập. Những kiến thức về sử học, những kinh nghiệm chính trị, những suy nghĩ triết học, những cảm xúc sáng tạo về văn học, ông dồn vào việc hoàn thành và chỉnh lý các bộ Xuân thu quản kiến, Kim mã hành dư, Hoàng hoa đồ phả, Yên đài thư vịnh, Cúc đường bách vịnh, Hán các anh hoa, Trúc Lâm tôn chỉ nguyên thoại.
Ngô Thì Nhậm và cuộc giao chiến trên trường văn trận bút
Một toán lính sắc phục lạ, ập vào nhà Ngô Thì Nhậm giữa lúc ông đang cặm cụi trước án thư. Chúng đóng gông đeo xiềng, đẩy ông vào cũi và khiêng thẳng về Thăng Long.
Từ mấy năm nay, Ngô Thì Nhậm đã lường trước được cơ sự này. Ông rất bình thản, dường như không chú ý đến xung quanh nữa.
Triều Tây Sơn thế là đã sụp đổ. Đương đầu với một kẻ thù gian hiểm là bọn Giang Long Nguyễn Ánh, sau khi Nguyễn Huệ mất, chẳng những chúng thiếu một người cầm đầu kiệt xuất, mà lại còn đi vào cái dớp xấu của những triều đại trước: bè đảng tranh chấp, sao lãng dân tình, ăn chơi sa đọa… Trong khi đó, bè lũ Nguyễn Ánh ra sức chiêu nạp từ những tên cường hào đến những tên du thủ, lại bám áo bọn người Tây Dương đang dòm ngó đất này, tìm hết cách chiếm lại ngôi chúa bằng bất cứ giá nào….
Không còn có cơ hội cứu vãn tình thế, cũng không còn có dịp để thi thố tài năng. Ngô Thì Nhậm đành cố tìm cách lãng quên trong việc trước thuật. Và ông bình thản chờ đón việc sẽ phải xảy đến với mình. Sẽ đến lúc, chỉ còn ông với tầm lòng cô trung của ông mà thôi.
Nhưng đến khi bị dẫn vào dinh “Tổng trấn Bắc Thành”, nhác trông thấy một hình thù quen, Ngô Thì Nhậm bất giác khẽ giật mình. Đặng Trần Thường! Phải, chính là cậu ấy họ Đặng, ngày trước đã thân đến tận nhà Ngô Thì Nhậm cầu cạnh nhờ vả, để rồi bị cự tuyệt nhục nhã! Tên Đặng Trần Thường ấy, ngay sau đấy đã tìm đường vào Gia Định [14] theo phò Nguyễn Ánh. Và bây giờ, sau buổi đắc thắng của Nguyễn Ánh, Thường đã leo được lên chức Phó Tổng trấn Bắc Thành [15].
Tiểu nhân đắc chí, nhớ tới mối hiềm cũ với Ngô Thì Nhậm, Đặng Trần Thường đồng thời tính ngày đến chuyện triệt hậu họa từ một cận thần tài cán của Quang Trung Nguyễn Huệ ngày trước, “Quyền hành mới vào tay y mà đã được dùng vào việc này rồi!” – Ngô Thì Nhậm thoáng nghĩ như vậy, và lập tức, lấy ngay lại trong mình sự bình thản, hơn thế nữa, sự tự tin vững vàng. Điềm đạm, ông nhìn thẳng vào mắt Thường.
Gặp cái nhìn ấy, Đằng Trần Thường mất hẳn vẻ dương dương tự đắc ban đầu. Tuy vậy, khóe miệng giảo hoạt chẳng đổi thay của Thường vẫn nhếch lên, hằn học:
– Thời thế quả là chóng đổi thay, xoay vần! Thấm thoát vậy mà đã 20 năm rồi! Nhưng ta thì chẳng bao giờ quên cái… đầu bài ngày ấy ông đã ra… Vậy nay xin hoàn lại cho ông!
Từ chiếc án cao, một mảnh giấy cuộn tròn được lính hầu mang tới mở sát ngay mép gông của Ngô Thì Nhậm. Và Đặng Trần Thường cố nhếch mép cười. Liếc nhanh vào cuộn giấy rồi lại ngẩng lên, Ngô Thì Nhậm thấy cái cười ấy. Một luồng máu nóng hừng hực bốc thẳng lên mặt, Ngô Thì Nhậm mím chặt môi, ngước mắt nhìn lên cao: “Kẻ tiểu nhân đắc chí này muốn mượn chuyện cũ để làm ta nhục sao? Được rồi, để xem…”.
Thì ra cuộn giấy vừa mở ra trước mắt Ngô Thì Nhậm đó, chính là một vế câu đối. Và hắn là Đặng Trần Thường đã mất nhiều công phu để nghiền ngẫm nó:
“Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai?”
Một vế câu đối mượn ngay ý của Ngô Thì Nhậm ngày xưa. Và chữ nghĩa khá hiểm hóc. Nhất là trong cảnh ngộ như thế này.
Nhưng tất cả nghị lực, tài năng và sức sống kỳ lạ đã cùng một lúc, vụt trỗi ngay dậy trong Ngô Thì Nhậm, giữa một cơn kích thích cao độ của ý chí chiến đấu. Sự mẫn tiệp của ông bắt nhanh ngay lấy những tiếng vừa luận về thời thế của Đặng Trần Thường. Đôi mắt sáng quắc nhìn chăm chắm vào khoảng không ở cao trước mặt, khuôn mặt căng thẳng, Ngô Thì Nhậm lập tức đảo chữ, tìm ý, đón vần: ông đã chấp nhận cuộc thách đấu, không đắn đo, và coi đó là cuộc chiến đấu cuối cùng của mình!
Gian nhà im phăng phắc. Lũ lính hầu kinh ngạc trước cảnh tượng chưa bao giờ từng thấy. Mấy tên thư lại ngồi trơ như tượng đá. Và Đặng Trần Thường tắt hẳn khóe cười tự lúc nào. Cuộc giao chiến trên trường văn trận bút này rõ ràng lại có điều gì thất lợi sắp xảy ra cho hắn rồi!
Đột nhiên, vẫn ngẩng cao, Ngô Thì Nhậm vẫy tay ra hiệu đòi giấy bút. Những nét chữ gân guốc, vùn vụt tràn ra ngay dưới bàn tay quan Binh bộ thượng thư của triều Tây Sơn đã thất thế:
“Thế chiến quốc, thế Xuân thu, dù thời thế, thế nào cũng thế!”
Hơi văn đi mạnh như gió, mà ý vững như thành. Và chữ nghĩa đối lại chan chát! Quả là Đặng Trần Thường sẽ còn không sao lường hết được. Thường cố gượng gạo chống đỡ. Quát bảo tả hữu tháo gông, cởi xiềng cho Ngô Thì Nhậm, rồi sau đấy, sai đưa ông sang nhà nghỉ, mấy ngày liền, Đặng Trần Thường ra sức dụ dỗ Ngô Thì Nhậm đi theo chúa mới cùng với hắn, và nhất là… sửa lại vế câu đối! Mánh khóe của Thường kể cũng đã khá gian ngoan. Hắn chỉ nài Ngô Thì Nhậm đổi cho những chữ “dù thời thế, thế nào cũng thế” thành ra “gặp thời thế, thế thời phải thế!”.Nhưng rõ ràng, giữa mấy chữ đơn giản ấy, là cả một đại dương về thái độ và tinh thần! Ngô Thì Nhậm trước sau chỉ một mực in lặng hoặc cười nhạt [16].
Ông đã giữ thái độ ấy cho đến lúc chết. Biết không thể nào lay chuyển nổi Ngô Thì Nhậm, lòng khao khát trả thù lại nổi dậy trong Đặng Trần Thường. Tên Phó Tổng trấn Bắc Thành của Gia Long Nguyễn Ánh đã sai lính điệu Ngô Thì Nhậm ra trước Văn Miếu. Trận đòn thù đúng 100 trượng hằn học giáng xuống tấm thân tuổi tác đã 60 của Ngô Thì Nhậm, theo đúng “thể lệ” trừng phạt của chế độ nhà Nguyễn đối với những người có đạo học mà lại mắc “tội theo giặc” vào lúc ấy. Và Ngô Thì Nhậm đã bỏ mình sau trận đòn như thế.
Truyện Trạng nguyên Lương Thế Vinh – LichSu.Org
Theo Văn Lang
Chú thích trong câu chuyện về Ngô Thì Nhậm
- Nay là xã Đại Thanh, huyện Thanh Oai, Hà Nội.
- Tập văn của Bí Doãn (tên hiệu của Ngô Thì Nhậm).
- Cuốn sách này Ngô Thì Nhậm đã hoàn thành vào lúc cuối đời.
- Nay là Thừa Thiên – Huế.
- Tôi trung không thờ hai vua.
- Giết bốn người cha để làm Thị lang.
- Những câu đối thoại đặt trong dấu ngoặc kép từ đây trở đi, đều trích nguyên theo Hoàng Lê nhất thống chí và Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập.
- Vẫn dẫn theo Hoàng Lê nhất thống chí.
- Hình ảnh này của Nguyễn Huệ, thấy ghi trong Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập.
- Nay là thành Huế.
- Số liệu dẫn theo thư bang giao của Ngô Thì Nhậm với Nhà Thanh.
- Vùng biển ở phía nam Thanh Hóa bây giờ.
- Vùng núi giữa Thanh Hóa và Ninh Bình ngày nay.
- Nay là Nam Bộ.
- Bắc Bộ ngày nay.
- Đoạn này viết theo một giai thoại văn học. Nhiều tài liệu khác nói rằng, tất cả và ngay từ đầu vế câu đối của Ngô Thì Nhậm đã là: “Thế chiến quốc, thế Xuân thu, gặp thời thế, thế thời phải thế” để thanh minh cho việc bỏ triều Lê mà theo Tây Sơn của mình, cho rằng việc đó là đúng đắn, thức thời.