Nhà nước Ai Cập cổ đại ra đời
Nhà nước Ai Cập cổ đại hình thành trên cơ sở liên kết và chinh phục tất cả các nôm (châu), đã tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế mạnh hơn trước.
1. Sự xuất hiện xã hội có giai cấp ở Ai Cập
Những di tích văn hóa vật chất thời cổ có thể giúp chúng ta hiểu đại khái quá trình hình thành xã hội có giai cấp và nhà nước sớm nhất ở Ai Cập. Chế độ thị tộc tan rã và xã hội có giai cấp ra đời ở Ai Cập là vào khoảng bốn, năm nghìn năm trước công nguyên. Lúc đó, dân cư ở lưu vực sông Nile đã sống theo từng công xã nhỏ. Nông nghiệp đã chiếm địa vị hàng đầu trong kinh tế của công xã nông thôn.
Công xã nông thôn là tổ chức kinh tế cơ sở của Ai Cập cổ đại. Nông nghiệp lúc này đang còn ở trình độ canh tác nguyên thủy: công cụ sản xuất đều làm bằng đá, bằng gỗ, phương pháp canh tác còn rất lạc hậu, người ta chỉ biết xới đất lên rồi gieo hạt giống; tuy vậy nhờ chất đất ở đây màu mỡ, nên thu hoạch cũng tạm đủ sống. Nhưng để đảm bảo thu hoạch đều đặn, chống mọi thiên tai như hạn hán và lụt lội thường xảy ra ở Ai Cập, công tác thủy lợi đã trở thành công tác trọng yếu nhất của các công xã nông thôn. Nông nghiệp phát triển lên môt bước càng đòi hỏi bức thiết các công xã phải liên hiệp lại để cùng hợp sức làm thủy lợi. Công tác thủy lợi phát triển thì công xã nguyên thủy sống phân tán, không còn là một tổ chức thích hợp với yêu cầu phát triển sản xuất nữa. Do đó nhiều công xã nguyên thủy hợp lại thành một liên minh công xã rộng lớn hơn, gọi là “nôm” để có khả năng huy động nhiều nhân công làm công tác thủy lợi. “Nôm” có thể coi như là châu, quận ở Việt Nam ta thời cổ. Về sau các “nôm” đó hợp nhất lại, phát triển thành quốc gia Ai Cập.
Có tất cả chừng 40 “nôm” hay châu, nằm ở dọc hai bên bờ sông Nile, mỗi “nôm” đều có thành thị và hương thôn. Ở thành thị hay nông thôn, nô lệ đa số là chiến tù, thuộc sở hữu chung của công xã, và được sử dụng một cách rộng rãi trong các ngành thủ công nghiệp và nông nghiệp, chủ yếu trong các công trình thủy lợi. lao động trên đồng ruộng thì chủ yếu là do nông dân tự do của công xã làm.
2. Nhà nước Ai Cập cổ đại hình thành trên cơ sở liên kết và chinh phục tất cả các nôm (châu)
Đầu thiên niên kỷ IV trước công nguyên, xã hội Ai Cập đã phân chia thành hai giai cấp đối kháng rõ rệt: chủ nô và nô lệ. Nguồn nô lệ chủ yếu là chiến tù. Chủ nô ngoài việc bóc lột nô lệ, còn bóc lột cả quần chúng nông dân công xã. Họ là tầng lớp quý tộc thị tộc đã tách ra khỏi đám dân tự do, trở thành giai cấp thống trị. Để đàn áp nô lệ và nông dân công xã, giai cấp thống trị chủ nô Ai Cập đã tổ chức ra bộ máy nhà nước.
Châu ở Ai Cập chính là hình thức phôi thai của nhà nước Ai Cập cổ đại. Đứng đầu mỗi châu, là một Nomarch – tức chúa châu. Chúa đồng thời cũng là thủ lĩnh quân sự, thẩm phán và tăng lữ tối cao của châu. Chức tăng lữ tối cao đó đã đem lại cho họ thêm một quyền lực rất lớn: thần quyền. Chúa được coi như một vị thần sống. Mỗi châu có một tín ngưỡng tôn giáo riêng, thờ một vị thần riêng, thường thường là một động vật thờ làm tô tem. Giữa các châu, chiến tranh thôn tính đất đai, cướp bóc của cải và nô lệ thường xuyên xẩy ra. Chiến tranh cũng thường xảy ra vì xúc phạm đến tín ngưỡng tôn giáo của nhau. Ví dụ: châu thờ thần cá đã từng đánh nhau với châu bên cạnh, vì người ở châu bên cạnh này thường ăn loại cá châu bên kia thờ làm tô tem.
3. Sự thành lập của nhà nước Ai Cập cổ đại thống nhất
Do yêu cầu thống nhất quản lý công tác thủy lợi trên phạm vi ngày càng rộng lớn, lại cũng do những cuộc tranh chấp lâu dài và tàn khốc nhằm thôn tính đất đai của nhau, dần dần các châu hợp nhất lại thành quốc gia thống nhất tương đối rộng lớn. Giữa thiên niên kỷ thứ IV trước công nguyên, các châu miền Bắc Ai Cập thống nhất thành vương quốc Hạ Ai Cập; các châu miền Nam thống nhất thành vương quốc Thượng Ai Cập. Mỗi vương quốc có tới chừng 20 châu.
Trong một thời kỳ rất lâu, giữa Thượng và Hạ Ai Cập đã xảy ra những cuộc chiến tranh tàn khốc để tranh giành địa vị bá chủ lưu vực sông Nile. Cuối thiên niên kỷ IV trước công nguyên, trải qua một cuộc đấu tranh lâu dài và tàn khốc, Thượng và Hạ Ai Cập đã hợp nhất lại thành một quốc gia thống nhất.
Trong cuộc đấu tranh giành bá quyền đó, miền Nam cuối cùng giành được thắng lợi vì các châu Nam đoàn kết chặt chẽ hơn. Nhưng sự hợp nhất giữa hai miền Bắc, Nam thành quốc gia Ai Cập thống nhất, chính là do yêu cầu phải thống nhất quản lý công tác thủy lợi trên toàn bộ lưu vực sông Nile. Sự thống nhất hai miền Nam, Bắc đã tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế ở hai miền bổ sung lẫn nhau để phát triển mạnh hơn.
Các sử gia Hy Lạp thường nói tới một ông vua tên là Menes mà họ coi là người đầu tiên có công thống nhất nhà nước Ai Cập cổ đại (khoảng năm 3.200 trước công nguyên). Tại một địa điểm quan trọng về mặt chiến lược, nằm trên đường giao thông thủy, bộ, ở giữa vùng tam giác châu và thung lũng sông Nile, ông đã dựng lên một thành trì kiên cố. Thành này về sau là thủ đô Ai Cập trong suốt cả thời kỳ cổ vương quốc – thủ đô Memphis.
Sự thống nhất Ai Cập thành một quốc gia rộng lớn đã cho phép vua Menes tiến hành xây dựng các công trình thủy lợi quy mô to lớn. Sau Menes, các vua thuộc hai vương triều đầu tiên (vương triều I và II) đã nhiều lần gây chiến với các bộ lạc ở phía đông Ai Cập sống ở miền Sinai, đánh chiếm vùng mỏ đồng ở đây và lấy rất nhiều đồng đem về Ai Cập chế tạo thành vũ khí và công cụ lao động, khiến cho nền kinh tế Ai Cập có điều kiện phát triển nhanh chóng hơn. Vì hai vương triều đầu tiên chọn thành Thinis ở miền Bắc làm thủ đô, nên thời kỳ thống trị của hai vương triều này gọi là thời kỳ Thinis (năm 3.200 – 3.000 trước công nguyên), tức thời Tảo kỳ Vương quốc trong lịch sử Ai Cập cổ đại.